(VI) “ĐỨC PHẬT THẦY
TÂY AN VÀ VUA QUANG TRUNG NGUYỄN HUỆ” (phần tiếp theo)
CHƯƠNG BA
1.CƯ SĨ SRIPOLIEU GIẢI THÍCH SAI LẦM TƯ TƯỞNG CỦA
MÌNH QUA QUYỂN KIM CỔ KỲ QUAN:
Cư sĩ Sripolieu viết:
“Ta hãy nghiên cứu những đoạn kinh sau đây để có thể tìm
được Bà Ngọc Hân Công Chúa ẩn cư và mất ở vùng cù lao sông Cửu Long.
Bà Ngọc Hân Công Chúa cùng con thơ vào mai danh ẩn tích,
làm ruộng rẫy ở vùng cù lao giữa sông Tiền và sông Hậu. Hai mẹ con Bà đã từng
lên điện ông Cấm lánh nạn và tu hành rất lâu. Sau đó Phật Thầy ra mở đạo ở làng
Tòng Sơn, Cái Tàu Thượng, Sa Đéc. Ta hãy nghe tâm sự của Bà qua đoạn thơ sau:
Dụng chi bạc lộn với
chì,
Vàng trao dạ ngọc tu
trì mới nên
Cửa thiền khó mở hai
bên
Việc này cần mẫn
chẳng nên cũng THUẦN
Việc này lập Ý mới
NHUẦN
Lòng không cần mẫn
chẳng THUẦN phải hư.
(trang 163)
THUẦN và
Ý là hai từ trong tước hiệu. NHƯ (Nhu) Ý TRANG THUẦN (Thận) TRINH NHẤT VÕ HOÀNG
HẬU của bà Ngọc Hân Công Chúa.
Đoạn thơ
trên chứng tỏ rằng Bà đã tu hành khi vào miền Nam. Ta hãy đọc tiếp tâm sự của
Bà:
Vượn kia bao nỡ lìa
cành
Chim kia bao nỡ bỏ
đành rừng non
Ai TỪNG MẸ CHẲNG
THƯƠNG CON
Lá lay vì bởi thẹn
non khác lòng
Đeo chi cổ chuỗi,
tay vòng
Nam mô không biết
trong lòng một câu
Chẳng lo đào giếng
cho sâu
Của mình nó lại lo
âu cho mình
Hướng nhan chi kẻ vô
tình
Phật không dụng sự
sắc hình dân ôi
CHỢ lớn sao nỡ hết
vôi
Làm người không CHÚA
làm tôi sao bằng
Chúa ơi sao chúa
không rằng
Để cho các nước lăng
quằng hại dân
Phật ơi sao Phật
chưa phân
Trời ơi sao nỡ để
dân điêu tàn
Dân ơi chẳng sợ cơ
hàn
Hiển vang chi đó,
chen đàng đua tranh
(trang 164)
“Lươn kia còn nhớt còn tanh
TANH CHI CÓ MỠ CÙNG DANH BÉO BÙI
Nói ra trong dạ sụt sùi
Thân này chi khỏi trái mùi trên
cây
Nay mà trôi nổi ĐẾN ĐÂY
Việc xưa chi khác việc nay chút
nào
QUÁN TRUNG ít kẻ ra vào
Tai nghe phường phố như TÀU hưng
binh”
Chữ QUÁN còn đọc là QUAN.
Ta kết hai chữ CHỢ (lớn), TÀU (hưng binh) thành chợ CÁI
TÀU (THƯỢNG), xã Mỹ An Hưng. CHÚA+QUÁN TRUNG: vua QUANG TRUNG.
“Lươn kia còn nhớt
còn tanh
Tanh chi có mỡ cũng danh béo bùi”
Ám chỉ Gia Long thành công với câu:
“Đeo chi cổ chuỗi tay vòng”
“Chẳng lo đào giếng
cho sâu
Của mình nó lại lo âu cho mình”
Rất có thể ám chỉ chuỗi vòng và những tài liệu của Bà Ngọc
Hân đã bí mật chôn giấu ở một cái giếng sâu nào đó ở gần Mộ Bà. (trang 165)
Bà Ngọc Hân đã âm thầm đau khổ nuôi con thơ thành người.
Sau con bà trở thành một vị Phật, có ảnh hưởng sâu rộng khắp miền Tây Nam Việt.
Cuối cuộc đời Bà đã yên nghỉ tại rạch Cái Nai, cách thị xã
Long Xuyên khoảng 5 Km, qua phà An Hòa đi về Cái Tàu Thượng. Ta hãy đọc đoạn
chỉ dẫn của tác giả KIM CỔ KỲ QUAN:
Củi ướt không cháy
thảm sầu
Cây khô MỤC phứt,
đứt đầu đồng NAI
Việc mình né nạnh
cho ai
So đàn đánh gậy, con
NAI vào rừng
(trang 166)
Đi đâu cũng phải có
chừng
E khi bờ bụi, BIỂN
rừng đợi trông
Nói chuyện nói cũng
MẮC công
Tai nghe cho biết
phải không cho tường
Hoang lâm cây cỏ mịt
đường
Có chi không biết dạ
tường ĐÔNG quan
Vải ĐEN sợ CHỈ cũng
ĐEN
Nhặt rơi không biết,
chê khen CÁI màu
Đầu đuôi chưa rõ
đuôi đầu
Thảm cho Tây quốc
bán CẦU LONG XUYÊN
ÔNG MẬT ĐÓNG CỬA TÒA
PHIÊN
HAI TÒA CHƯA BIẾT
SẦU RIÊNG TÒA NÀO
ĐI XÓM NGƯỜI MỚI GHÉ
VÀO
Có ai biết kiếm anh
hào mà hay
Có ai trồng chuối
tưởng CÂY
Đặt rơi xuống đất
khoanh tay trông buồng
Chỉ tơ rối rắm trong
cuồn
Rối thời gỡ rối dạ
buồn cơ thâm
Buồn đời tuổi chẳng
đặng trăm
Dầu hai thứ tóc
không tâm làm lành
BA MƯƠI MỘT PHÚT GÃY
NHÀNH
MIỆNG THỜI THẮNG
MÃNG, KHÔNG ĐÀNH TU THÂN
(trang 167)
E là quan cựu dân
TÂN
Dân TÂN QUAN cựu
không phân chánh tà
Vô phần sanh sự bất
HÒA
Lao ngao chen cửa ÁN
TÒA LẠY TÂY
Dại chi chẳng biết
vạy ngay
Vô tòa QUAN chúng
hành THÂY vui mừng
Đặng kiện về nói
tưng bừng
Đêm nằm chiêm nghiệm
nhớ chừng mưu GIAN
Trong lòng trăn trở
chẳng AN
Âm mưu nhiều việc tính toan hoành hành
Chúng ta chú ý những từ: CẦU, NAI, CÁI, CÂY, LONG XUYÊN.
Ta kết hợp lại thành CẦU CÁI NAI Ở LONG XUYÊN.
Với các từ: TÂN, AN, HÒA, GIAN (GIANG). Riêng chữ TÂN có
nghĩa là mới, còn có nghĩa là bến ghe (phà) AN HÒA Ở AN GIANG LONG XUYÊN.
Chữ: MẮC, MỤC, QUAN (QUANG) ám chỉ NGUYỄN QUAN MỤC.
Chữ THÂY ám chỉ HÀI CỐT BÀ NGỌC HÂN.
Chữ ĐỒNG+ĐEN+CHỈ+ĐUÔI+ĐẦU: ám chỉ bí danh người sẽ chỉ rõ
“đuôi đầu”.
Các câu:
“Có ai trồng chuối
tưởng cây
Đặt rơi xuống đất
khoanh tay trông buồng”
(trang 168)
Buồng
chuối ám chỉ Phật Thầy.
Cây chuối ám chỉ Bà Ngọc Hân.
Hai câu hàm ý người ta chỉ biết có Phật Thầy mà quên mẹ là
một vị Công Chúa, một vị Hoàng Hậu.
Hai Câu:
“E là quan cựu dân tân
Dân tân quan cựu
không phân chánh tà”
Hàm ý mẹ con Bà Ngọc Hân là dân mới vào định cư tại đây,
hương chức địa phương thời cũ.
Hai câu:
“Ba mươi một phút gãy nhành
Miệng thời thắng
mãng, không đành tu thân”
Bà Ngọc Hân công chúa sanh năm 1770 (có sách ghi năm
1771), lúc Nguyễn Ánh chiếm được Phú Xuân năm 1801, lúc đó bà vừa được 30 tuổi.
Bà đã hủy hoại nhan sắc diễm kiều của mình để qua mặt Nguyễn Ánh và quan quân
của kẻ thù.
Đoạn thơ trên chứng minh Bà và con trà trộn với những
người dân từ miền ngoài vào khai hoang vùng cù lao. Bà làm ruộng và tu hành tại
giữ vùng Cái Tàu Thượng và phà An Hòa thị xã Long Xuyên. Sau đó bà mất và mai
táng ở rạch Cái Nai. Cách phà An Hòa 6km, cách chợ Cái Tàu Thượng cũng 6km
(trang169).
Chứng minh thêm Mộ Bà Ngọc Hân và mộ vua Quang Trung ở
đâu, tác giả KIM CỔ KỲ QUAN viết:
“Thương người không
nói CHỖ NÀO
Nghe đâu cười nói ào
ào vô mưu
Làm người tâm tánh
bất ưu
Bất tri họa phước,
tri mưu chi người
Đụng đâu cười nói,
nói cười
MẮT thời tối bịt
lòng người bất nhân
Bất tri hậu hữu
nghĩa nhân
Bất tri thiên địa,
bất phân chánh tà
Tu không biết đạo Di
Đà
Tu không biết lẽ
chánh tà tu chi
Lại xưng mình biết
một khi
TRƯỜNG AN diễn thí,
xưa ghi mấy trò
ANH HÙNG thất chí
mới phò
Kết vi bằng hữu, dạ
dò cạn sâu
Không biết VIỆC NÀO,
ĐÂU ĐÂU
Khoe rằng mình giỏi
khó âu thuận HÒA
Biết thời ra trị
nước nhà
TRI TIỀN TRI HẬU
THƯỢNG HÒA HẠ AN
Không biết mà nói
dọc ngang
Ỷ mình hậu cận mưu
toan tóm quyền
Lỗi trước nhiều nỗi
ưu phiền
TRƯỜNG AN vô tự ký
tiền long ngôn
(trang 170)
Người khôn e hậu
chẳng khôn
Cải tà qui chánh cả môn bất hòa”
Ta chú ý các từ:
Chỗ nào, đâu đâu: ngầm ám chỉ điểm Mộ Bà Ngọc Hân. Tiền,
Hậu: sông Tiền và Sông Hậu.
Trường An, anh hùng, cạn sâu: ám chỉ mộ của vu Quang Trung
chôn cất sâu ở phường Trường An (Huế). (trang 171)
Các câu:
“Ỷ mình hậu cận mưu
toan tóm quyền
Lỗi trước nhiều nỗi
ưu phiền
TRƯỜNG AN vô tự, ký tiền long ngôn”
Hàm ý Thái Sư BÙI ĐỨC TUYÊN lộng quyền chiếm chùa Thiền
Lâm làm dinh Thái Sư (phường Trường An bây giờ), ngầm tiêu diệt trung thần của
vua Quang Trung, như Trần Văn Kỳ, Võ Văn
Dũng… Tạo nên sự chia rẽ nội bộ để đi đến việc suy tàn của triều đại Tây Sơn.
Toàn bộ đoạn thơ trên đã ngầm chỉ rõ hai địa điểm mai táng
Bà Ngọc Hân và vua Quang Trung. Bà được mai táng gần phà An Hòa, và vua Quang Trung
được chôn sâu ở vùng gò thuộc phường Trường An (Huế) bây giờ.
Kết luận, ta khẳng định Bà Ngọc Hân và con của Bà đã vào
vùng cù lao giữa sông Tiền và sông Hậu mai danh ẩn tích quanh quẩn giữa phà An
Hòa và Cái Tàu Thượng. Sau đó Bà mất và mai táng ở rạch Cái Nai. Ta tham cứu
thêm những đoạn kinh ngắn trích dẫn sau đây củng cố luận chứng nầy và kết luận
nơi sống chết của Bà Ngọc Hân công chúa:
Xét trong lục tỉnh
Nam Kỳ
Phật trời ngồi chốn
cung ly AN HÒA
….
Hữu tình nhi ngộ tế
tân AN HÒA
….
ĐỒNG NAI đá lửa rạng
ngời
Vận hưng trời cũng
đổi dời về đây
….
Miễn sao cho được
tích tồn ĐỒNG NAI
….
Gặp hội đó Tiên Phật
thảnh thơi
Người lành cũng được
một nơi AN HÒA
Đất ĐỒNG NAI đèn đỏ
một nhà
Độ trong bá tánh thượng HÒA hạ AN
Từ: AN HÒA còn ám chỉ An Hòa Tự Phú Tân.
ĐỒNG NAI:
ám chỉ Đồng Cái Nai, hay rạch Cái Nai, chớ không phải tỉnh Đồng Nai (trang 173).
2. ĐÍNH CHÍNH:
Chúng tôi xin nói rằng: quyển KIM CỔ KỲ QUAN ông Ba (
Nguyễn Văn Thới) viết theo lối sấm ký, không quan tâm đến văn phạm
như những tác phẩm của các văn nhân khác, nên khó giải thích đúng với ý sâu kín
của ông Ba. Nhưng dù sao chúng ta cũng phải tùy theo vị trí của các từ ngữ mà
giải thích cho hợp lý phần nào. Nếu cho rằng loại văn sấm ký bất chấp văn phạm,
rồi mỗi người tự giải thích theo ý tưởng của mình như cư sĩ Sripolieu đã giải,
là điều sai lạc, không thể tin đúng được.
Giả sử chúng tôi theo phương pháp của cư sĩ Sripolieu giải
thích theo ý tưởng của mình mà cho rằng:
Vị anh hùng kháng pháp ở đồng Bảy Thưa có ẩn tên họ trong
bộ KIM CỔ KỲ QUAN của ông Ba mà tìm tên họ nhân vật ấy:
“Tam thinh thay đổi
người vô số
Tận thế đại điềm ĐỨC
CỐ lai”
(Tiềng Giang trang 733)
“Ố ái ái ố tại lòng
QUẢN bao bao QUẢN
giữa dòng hải đông”
(Thừa Nhàn trang 535)
“Húy họ Di như húy
ông bà,
Lo TRẦN lo nguyễn lo
đà quá lo”
(Kiển Tiên trang 815)
“VĂN tùng u lệ sự
chăng,
Tự bất sải tăng VĂN
đóng cửa”
(Cáo Thị trang 192)
“Tôi lo bề thắng
thối phận tôi
Đường THÀNH bại than
ôi ai biết”
(Tiềng Giang trang 736)
Đọc mấy câu thơ trên, chúng ta thấy rõ danh từ: “ĐỨC CỐ
QUẢN TRẦN VĂN THÀNH” trong bộ KIM CỔ KỲ QUAN ông Ba đã viết.
Muốn thấy được tên họ vị anh hùng kháng Pháp “Hỏa hồng
nhật tảo oanh thiên địa, Kiếm bạc Kiên Giang khắp quỷ thần” có tên trong KIM CỔ
KỲ QUAN không? Chúng ta đọc thêm:
“NGUYỄN phủ trần hai
họ can trường
Vi nhơn đạo thọ
trường vĩnh hảo”
(Kiển Tiên Trang 749)
“Quân
tử mưu đạo bất mưu thực
Cám thương người
TRUNG TRỰC thuở xưa”
(Kiển Tiên trang 759)
Chúng ta thấy danh từ “NGUYỄN TRUNG TRỰC” đã hiện rõ trong
tác phẩm KIM CỔ KỲ QUAN của ông Ba.
Muốn biết được nhà thơ đáng kính thời Lê mạt có tên trong
quyển KIM CỔ KỲ QUAN của ông Ba hay không? Chúng ta đọc tiếp:
“Song song tỏ ngọn đèn
hường
Cầu mai cứu NGUYỄN tỏ tường kiến an”
(Thừa Nhàn trang 496)
“DU nan nan thị nan hồn
Thân thấy tại thế
khổ tại tạm quê”
(Tiên Giang trang 696)
Thì ra danh từ NGUYỄN DU trong KIM CỔ KỲ QUAN của ông Ba
đã có ghi sẵn tự bao giờ.
Và muốn biết nhà văn cận đại đạt giải thưởng văn chương
toàn quốc năm 1966 có tên trong bộ KIM CỔ KỲ QUAN của ông Ba hay không? Chúng
ta đọc thêm:
“Từ tôi hốt hỏa hành hung,
NGUYỄN gia đã mẫu
chí trung lâm tà”
(Tiền Giang trang 661)
“Ứng Khoa thi lấy chi làm dấu,
Đặng bản về tranh
đấu VĂN chương”
(Cáo Thị trang 198)
“Quân phế quốc HẦU tất phế đầu,
Công danh sớm đục
tối đầu quản bao”
(Kim Cổ Kỳ Quan trang43)
Chúng ta thấy danh từ NGUYỄN VĂN HẦU ông Ba đã có ghi
trong bộ KIM CỔ KỲ QUAN hơn một trăm năm về trước.
Qua những câu sấm ký, chúng ta đã thấy ông Ba có ghi rõ
tên: ĐỨC CỐ QUẢN TRẦN VĂN THÀNH, NGUYỄN TRUNG TRỰC, NGUYỄN VĂN HẦU trong bộ KIM
CỔ KỲ QUAN. Giờ đây để biết rõ bốn nhân vật ấy mất tại đâu, chúng ta hãy mở KIM
CỔ KỲ QUAN xem tiếp:(Cáo Thị trang 225)
“Bất húy TỬ dầu TỬ TẠI trời,
Tham sanh dầu sống
đời này làm chi”
(KIM CỔ KỲ QUAN trang 24)
“Một RẠCH hai vàm là
không rảnh
Kìa nơi sơn lãnh
thảnh thơi hơn”
(Bổn tuồng trang 375)
“Bửu CÁI đây hớn hở
vui cười
Quy cõi thọ số mười
đề hiệu”
“Việc nầy nè mạnh
cho ai,
So đòn đánh gậy con
NAI vào rừng”
(Tiền Giang trang 693)
“Qua Gia Định mua
mắm mấy hồi,
Đêm về long ẤP người
ngồi bán cân”
(KIM CỔ KỲ QUAN trang 57)
“Bính thình AN trị Đing
Tỵ hung,
Phản khắc nịnh trung
hung kiết lỵ,
Mậu Thình bất trị Kỷ
Tỵ BÌNH”
(Cáo Thị trang 225)
“Trên cha dốc tóm
thâu Nam Bắc,
Dưới con nguyền XÃ
tắc bảo yên”
(Tiền Giang trang 725)
“Trời Ngài khiến hậu phú tiền bần
Nam bang Tần quốc thánh thần HỘI AN”
(KIM CỔ KỲ QUAN trang 24)
“nha môn việc mãng
bất bình
HUYỆN di việc mãng
thế tình bất suy”
(Thừa Nhàn trang 404)
“Nói vạy lại nói
việc ngay
Nói CHỢ nói xóm tới
đây nói rừng”
(Thừa Nhàn trang 404)
“việc đâu phải nói
việc đâu
MỚI là mới nói cũng
lâu bấy chầy”
(Bổn Tuồng trang 476)
“Nghĩa quân thần hà hữu vô ưu
AN GIANG TỈNH thiên
vu tán ngã”
(Tiền Giang trang 727)
Qua những câu thơ vừa đọc, trích trong bộ KIM CỔ KỲ QUAN
của ông Ba, chúng ta thấy hiện rõ các danh từ: “ĐỨC CỐ QUẢN TRẦN VĂN THÀNH –
NGUYỄN TRUNG TRỰC – NGUYỄN DU – NGUYỄN VĂN HẦU TỬ TẠI RẠCH CÁI NAI, ẤP AN BÌNH,
XÃ HỘI AN, HUYỆN CHỢ MỚI, TỈNH ANH GIANG”
Trên đây chúng tôi dẫn theo phương pháp tìm ẩn danh trong
bộ KIM CỔ KỲ QUAN của ông Ba, như cư sĩ Sripolieu đã giả thích, thử hỏi bốn
nhân vật ấy có phải tử tại rạch Cái Nai, ấp An Bình, xã Hộ An, Huyện Chợ Mới,
tỉnh An Giang hay không?! Điều này chắc ai cũng khẳng định là không !
Như vậy
phương pháp tìm tên họ, giải thích của cư sĩ Sripolieu ở đây là điều cưỡng lý
theo tư tưởng vô tình hay cố ý của cư sĩ. Nó trái với lẽ chân thật cùng sai quy
tắc văn chương và cũng không thể cho rằng trong bộ Kim Cổ Kỳ Quan của ông Ba có
tiên tri về việc phi lý nầy!
3.PHẬT THẦY TÂY AN KHÔNG PHẢI CON NGUYỄN HUỆ VÀ
NGỌC HÂN CÔNG CHÚA KHÔNG CÓ TỴ NẠN VÀ MỒ MẢ Ở CÁI NAI:
Theo các tài liệu lịch sử công nhận:
Khi Phật Thầy khai lý lịch tại đình làng Tòng Sơn, trước
mặt chánh quyền sở tại của nhà Nguyễn, có ông Đoàn Văn Điểu và Đoàn Văn Viên
(anh chú bác) là nhân chứng sự thật về vụ khai báo nầy. Nếu chánh quyền xét lại
lời khai gian dối, thì làm sao Phật Thầy được yên thân. Vì vụ án truy nã dòng
dõi Tây Sơn rất nghiêm trọng, chánh quyền không thể bỏ qua.
Phật Thầy trị bệnh độ đời không bao lâu, chánh quyền tỉnh
An Giang cho lệnh bắt Phật Thầy về tỉnh. Đương nhiên họ phải điều tra rất kỹ,
nhứt là Phật Thầy không liên quan đến vụ án Tây Sơn, nên chánh quyền tỉnh mới
dám đệ sớ về triều đình bảo lãnh Phật Thầy là bậc chơn tu và được trả tự do cho
Ngài về Tây An Tự trị bệnh độ đời.
Ngay thời gian đó, Phật Thầy thực hiện chương trình “lập
giáo” thu nhận tín đồ và bức trần Đỏ được tôn thờ các nơi cơ sở đạo cùng ở tư gia
tín đồ. Nếu Phật Thầy có liên quan đến chủ nghĩa Tây Sơn (cờ đỏ) thì Ngài đâu
có cho tín đồ trần thiết màu đỏ trên bàn Phật để nguy hiểm cho tính mạng của
Ngài và tai hại chung cho toàn thể tín đồ!
Căn cứ theo tài liệu các văn nhân, nhất là của giáo sư
Trịnh Vân Thanh, thì sau khi lên ngôi Hoàng Đế năm Mậu Thân (1788), đặt niên
hiệu Quang Trung, đóng đô ở Thuận Hóa; Nguyễn Huệ tiến binh ra Bắc đánh quân nhà
Thanh chiếm lại thành Thăng Long, đại thắng quân Thanh ở trận Đống Đa, tướng
giặc Tôn Sĩ Nghị bại trận rút quân về nước. Nắm được thời thế, Nguyễn Huệ một
mặt lo củng cố chủ lực, một mặt đòi lại Lưỡng Quảng tạo cớ đánh Thanh. Nhưng
chẳng mai Nguyễn Huệ bị bệnh, mệnh chung vào đêm 29 tháng 9 năm Nhâm Tý (1792).
Còn Phật Thầy Tây An đản sinh vào giờ Ngọ ngày rằm tháng
10 năm Đinh Mão (1807), tức Sau khi Nguyễn Huệ mất 15 năm. Như thế người đã vùi
xương nơi lòng đất lạnh 15 năm rồi mà phải chịu trách nhiệm làm cha một đứa bé
sơ sinh! Biện lý cuộc nào dẫn chứng và tòa án nào buộc tội đương sự quái lạ như
vậy??
Chúng tôi xin đính chánh vấn đề nầy:
Theo các tài liệu lịch sử và bộ từ điển của giáo sư Trịnh
Vân Thanh, thì “Công Chúa Ngọc Hân ( 1770-1830), là con gái út của vua Lê Hiến
Tôn (1740-1786). Năm Bính Ngọ (1786) lấy chồng tức là vợ của Bắc Bình Vương
Nguyễn Huệ và được phong làm Bắc Cung Hoàng Hậu.
Năm Nhân Tý (1972) Nguyễn Huệ mất, tính ra bà ở với chồng
được 7 năm, sanh được 1 trai 1 gái.
Nhà Tây Sơn đổ, bà cùng hai con lẩn lút ở tỉnh Quảng Nam,
được ít lâu có người điềm chỉ chỗ bà ở cho vua nhà Nguyễn, bà và hai con bị bắt
và bị giết.”
Ngoài các tài liệu lịch sử ra, bộ “Thành Ngữ Điển Tích
Danh Nhân Từ Điển” của giáo sư trịnh Vân Thanh, một bộ từ điển đủ đầy uy tín, được
giới trí thức, văn nhân, học giả… công nhận và tín dụng, không một ai phản đối,
nên đáng tin hơn.
Hôm nay
nếu có một nhân văn nào bài bác tài liệu
nầy, chẳng khác chi người ngậm khối phun ra mong che ánh mặt trời, tức không
thể được. Cư sĩ Sripolieu nói Phật Thầy Tây An là con của vua Quang Trung
Nguyễn Huệ và Ngọc Hân Công Chúa vào miền Nam tỵ nạn rồi chết, mồ mả tại rạch
Cái Nai, đây là một luận thuyết vô cùng phi lý!
Bình Nguyên
(Còn
tiếp)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét