Chủ Nhật, 25 tháng 2, 2018


XÚC ĐỘNG QUÁ ĐI !

Những ngày cuối năm Đinh Dậu Thiên Quang Am được vài lược khách đến thăm, trong đó có lược khách khá đặc biệt kể câu chuyện thương tâm của bà con gặp hoàn cảnh không may làm tôi ấm ức lòng. Chúng tôi chào vui vẻ qua một năm lành mạnh, chúc nhau tinh thần đạo đức vững vàng. Trình bày Đạo Đức gồm hai điều: Đạo Đức bản thân và Đạo Đức xã hội. Đạo đức bản thân được sự nuôi dưỡng tốt qua hạnh cách của hành giả đi trong Thiền hay Tịnh an lạc tâm hồn, chảy gở tốt qua những thử thách và thách thức trên đường giác ngộ. Từ đạo đức bản thân làm ánh lên đạo đức xã hội: người thương người.
Nói về đạo đức bản thân chúng tôi khuyên nhau kiểm nghiệm và thúc đẩy sự kiểm nghiệm chính mình trước vật chất phù hoa đương độ ồ ạc; nhứt là những ngày trong Tết, vật chất se sua dễ làm động lòng trần tục, không để phiền não theo đó len lỏi vào hồn làm rối lên sự yên tịnh ta đã cố gắng huân tập trong những năm qua, quậy hoạn méo mó, tỳ vết buổi công phu. Bàn về Đạo Đức xã hội, xã hội là môi trường sống chung chạ đông người gồm đủ mọi thành phần giàu nghèo, ngu trí, khõe mạnh, tật nguyền. Một xã hội đa dạng như vậy nói về tình người thì bụng dạ rất khó lường nên xã hội cần phải phổ cập Đạo Đức để cảm hóa dần các cái bụng dạ khó lường đó. Bên cạnh những người nghèo khó, ngu muội, bệnh tật, hãy thực hiện công tác từ thiện, phổ cập ích lợi nhân dân qua tu kiều bồi lộ, giúp đỡ người nghèo khổ về nhà ở, cơm gạo, trị bệnh… đồng thời đề cao tính nhân quả tội phước qua những làng và người nghèo khổ để họ lấy sự trau sửa bản thân làm căn bản đời sống tích thiện, chừa ác, gieo phước tránh họa. Khi chứa thiện gieo phước được huân tập nhiều trong đời sống, trên sân chơi, phước thiện ở cương vị làm chủ tình hình tất nhiên đủ sức mạnh loại ác dứt họa, sự sống sẽ được bình yên, tự do hơn, cảnh nghèo đói chắc chắn được cứu vảng. Xã hội ngày nay ta thấy có nhiều ông bà chủ nhà giàu đã được cảm hóa, từ bụng dạ khó lường người ta đã lường được tâm tình và sự thương yêu của họ đối với những bà con nghèo đói, bệnh tật.
Ví như ngày nào miếng đất bỏ hoang, cỏ mọc thành rừng, người ta không thể ăn cỏ mà sống tốt, như vậy kẻ có đất cũng chưa nhờ cậy được thì có cũng như không. Không làm ra quê lợi trên đất, chịu đói mới thiệt là buồn cười. Phát hoang trồng lúa, được lúa trong nhà sẽ có gạo, cảnh đói không còn nữa. Người ta có thân mà không thực hiện đạo đức bản thân khác nào như đất bỏ hoang thành rừng, thân bị bỏ hoang không còn giá trị như đất bị bỏ hoang. Nếu thân có Đạo Đức thân gắn liền với phước thì phước thân sẽ đến, hạnh phúc nối liền. Đức Thầy có câu:
“Biết làm sao gieo đạo khắp đại đồng,
Đưa nhơn loại đi vào vòng hạnh phúc.”
Nếu bàn xét hai câu có nội dung giáo lý dẫn trên chúng ta không ngại nói rằng: chỉ có Đạo Đức bản thân mới đưa con người đến chân hạnh phúc. Đạo đức nhiều thì hưởng hạnh phúc nhiều, đạo đức ít là hưởng hạnh phúc ít, không đạo đức sẽ không có hạnh phúc. Đừng tưởng giàu tiền của là hạnh phúc. Một gia đình không có đạo đức bản thân dễ sanh chuyện bất hòa, chồng không đủ tư cách làm chồng tốt, vợ không xứng đáng là vợ hiền, con cái trong nhà vì theo giàu tiền có đứa làm bậy đến mức hết thuốc chửa. Người trong một nhà mất niềm tin với nhau không ai tin ai mà thảy một đống tiền ra chứng minh hạnh phúc sao? chỉ là đặt để gượng gạo trong khi quá ham muốn có hạnh phúc.


Trong tiêu đề bàn luận đạo đức xã hội có một khách trẻ kể câu chuyện đáng thương đã làm tim tôi thổn thức: Số đông đồng bào mình nhiều năm qua làm ăn sinh sống trên vùng Biển Hồ, nước láng diềng Cam Pu Chia bằng nghề Hạ Bạc. Đến lúc thiên nhiên không còn ưu đãi bởi dòng nước từ thượng nguồn sông Mê Kông đã bị nhiều quốc gia phía trên đấp đê ngăn chận, mực nước Biển Hồ bị vơi kiệt, lượng hải sản không nhiều, làm không đủ sống, dân Việt mình bồng chống với nhau tản cư về đất Việt. Nhưng khổ thay! Lúc sinh sống bên Biển Hồ, ông bà cha mẹ đến đây là chạy giặc đói, làm lụn không rảnh tay đâu có thời giờ dạy chữ Việt cho con cháu, đời sống chật vật không mướn nổi thầy giáo về dạy. Bởi đó thế hệ sau, con cháu chỉ nói được tiếng Việt trong những sinh hoạt bình thường nhưng không biết đọc biết viết chữ Việt. Bấy giờ trở về Việt Nam sống với cội nguồn dân tộc, dầu có cố gắng cũng thiếu sự hòa nhập xã hội công đồng bởi không biết chữ Việt mà ra. Thêm một nỗi bất hạnh nữa: Số người Việt từ Cam Pu Chia về ở dọc theo biên giới tỉnh Tây Ninh không được nhà nước địa phương nầy cho nhập cư hợp pháp một công dân Việt, khiến sự sống của bà con tồi tệ hơn. Họ đậu ghe cập dài theo bờ sông hoặc sóc cây che trại mủ dưới bệ mong có ngày chánh quyền địa phương tốt bụng bao dung tha thứ những người tha phương cầu thực thất bại trở về.
Người Việt Nam trở về quê cha đất tổ không được chánh quyền đồng bào mình che chở, cứu khổ cứu nạn nghèo đói. Không cho nhập cư lấy đâu ra cái sổ hộ khẩu để dẫn trẻ em đến trường, ở Cam Pu Chia dốt chữ Việt cũng không đáng trách, nay về với dân tộc giống nòi mà nhà nước tỉnh Tây Ninh đành lòng cho chúng dốt tiếp sao? Còn nữa, những người lớn ở tuổi lao động, họ muốn kiếm việc làm nuôi sống bản thân và gia đình, không có hộ khẩu là không có giấy chứng minh nhân dân, đi tới đâu, công ty hay các nhà máy, xí nghiệp hoặc những gia đình giàu sang cần người giúp việc, không trình giấy chứng minh nhân dân ra, dù có tay nghề cao, lao động giỏi giang cũng không ai dám mướn.
Tôi thật xúc động khi nghe câu chuyện trên, thương những người gặp hoàn cảnh trớ trêu tôi hỏi:
- Quý vị nhận được tin người Việt từ Cam Pu Chia di tản về cố quốc bao lâu rồi?
- Dạ cuối năm 2016 và đầu năm 2017.
- Vậy cũng lâu, hy vọng trong khoảng thời gian hơn một năm qua đủ cho chánh quyền đia phương ấy đã làm xong thủ tục nhập cư cho họ.


Tôi nghĩ, Không cho người Việt từ Cam Pu Chia nhập cư về nước Việt sẽ mang tội phụ bạc giống nòi, hại người lớn hại luôn trẻ em. Người lớn, cả nhà không có việc làm lấy gì mà ăn sống? Trẻ em không được đến trường khiến dốt nát nghèo đói triền miên làm gánh nặng cho quốc gia. Đối với một đất nước tự hào là luôn trên đà phát triển kinh tế, văn minh, sao lại rơi vào trường hợp nói trên? Tôi nhớ có lần nghe ông nhà nước cấp cao của Việt Nam phát biểu trên vô tuyến truyền thanh, truyền hình: Người Việt hải ngoại là bàn tay nối dài. Tôi mong chánh quyền địa phương nào đó trong tỉnh Tây Ninh sớm áp dụng bàn tay nối dài của ông chủ tịch nước đối với người Việt từ Cam Pu Chia về, cho họ thực sự là một công dân Việt Nam với các quyền lợi và nghĩa vụ với tổ quốc. Những bà con đáng thương của mình có nơi ăn chốn ở và con cháu của họ cũng được vào trường học hành như mọi trẻ em trong nước Việt Nam là chứng minh cụ thể lời phát biểu hay ho dẫn trên.
Thương người Việt từ Cam Pu Chia về gặp hoàn cảnh rất là tội nghiệp, muốn cho họ có một cuộc sống yên lành hưởng quyền lợi bình đẳng như mọi công dân Việt trên nước Việt, nhưng chánh quyền có ý nghĩ khác hơn ta biết làm sao? Bây giờ chỉ còn cách cầu Trời khẩn Phật chuyển hóa tình thương đến chánh quyền đang thiếu tình thương, đồng thời cầu Trời khẩn Phật ban bố cho số người Việt trở về cố quốc nói trên thêm sức chịu đựng sự ngược đãi, bất công của quan quyền địa phương nầy. Cầu nguyện là một lẽ, đồng bào ta đang đậu ghe thuyền, che chòi tạm ở, liu tiu quá! nếu ta không giúp đỡ họ, để cho sự nghèo đói kéo dài, đến khi sức chịu đựng không còn, e diêm dương lập hộ khẩu họ trước hơn chánh quyền địa phương nào đó của tỉnh Tây Ninh thì rất là tội nghiệp.
26/2/2018

Thứ Tư, 21 tháng 2, 2018


THĂM NHAU DỊP TẾT

Năm mới kính chào chư đồng đạo đến thăm, rất hân hạnh được sự hiện diện của quý vị nơi Thiên Quang Am đơn vắng nầy. Xin chân thành cám ơn những lời chúc tết tốt đẹp của quý vị đối với tôi. Thay vì câu “ chúc qua chúc mới toại lòng nhau” tôi xin được quý vị nhận nơi đây lời cầu nguyện ơn trên Đức Phật Đức Thầy gia hộ cho quý vị năm mới dồi dào sức khõe, sống đời an lạc, hạnh phúc.
Lời chúc tết thuộc về bài bản mang tính xả giao chứ chưa thấy mấy ai thành đạt hiện thực như lời chúc, nếu hiện thực được lời chúc có thể do may mắn thôi. Điều nầy ta để bàn sau, giờ gặp gở trong dịp tết ta nên trao đổi về tết hoặc những vì có liên hoan đến tết.
Tết đến làm người người đều vui bằng ánh mắt, nụ cười, kẻ giàu sang vui trong yến tiệc mâm cao cổ đầy, người nghèo khó lao động vất vả vui vì nghỉ được đôi ba ngày tết với những bửa ăn thông thường, chị kia trang diện bảnh bao, mua sắm lòe loẹt, anh nọ chúi mũi vào mâm rượu, sồng bài… Chúng ta là người biết đạo, thâm hiểu giáo lý giải thoát của Phật, đúng là không thể vui trong những thú vui đó. Vì là thâm hiểu giáo lý giải thoát ta chỉ nên chọn thú vui của tết bằng đánh bại kẻ thù phiền não. Tại sao phải làm như thế? Bởi có phiền não quấy rối, xai khiến, đối với nhà tu hành cuộc vui tết như vậy mất ý nghĩa.
Mỗi lần tết đến, dầu ta không nói ra ai cũng biết là lên tuổi, già lần, chết lần theo năm tháng. Điều nầy, ai không dám nhìn sự thật về sự già, chết của đời mình thì cho cách nói của tôi là quá bi quan bạc nhược. Thật sự thì ta có già không? Dù nay ta chưa chết nhưng thấy người khác chết thì biết ta phải chết, chỉ là sớm hay muộn mà thôi. Có ai dám nói khi cha mẹ sanh ra thì mình là một ông bà già chứ? Không dám phải không? Cho dầu có ngang bướng nói thế nào người ta cũng không tin là sự thật. Chuyện trước mắt ai cũng thấy người mới sanh ra còn đỏ hỏn, trải nhiều năm mới lên già. Vậy, điều tôi nói: Mỗi lần tết đến, dầu ta không nói ra nhưng ai cũng biết là lên tuổi, già lần… đâu thể gọi là bi quan mà là: nói đúng sự thật.

Tiền nhân đặt để móc thời gian lấy một con Giáp 61 năm làm tuổi hưởng thọ, cái ông hay bà tuổi hưởng thọ bây giờ cũng đã đi từ một tuổi thì nói đến 61 năm nữa là rất xa. Nhưng chiếc xe thời gian luôn luôn đi tới chứ không đẩy lui, sanh ra một tuổi thì năm sau lên hai tuổi, năm sau và sau nữa… có phải mỗi năm mỗi gần móc thời gian định số…? Vậy nói, mỗi năm qua là đi gần đến cái chết đâu phải là câu trù ẻo.
Người ta vì vui say những chuyện thế gian quên hay ngòi thuốc nổ mang tên Lão và Tử có trong mình. Một chúng sanh còn trong vòng quay luân hồi, lúc đi đầu thai, luật nhân quả đã cài cắm hai hạt giống nầy vào cơ thể mà ngòi nổ ấy luôn luôn ở thế hoạt động âm thầm chờ đến khi phát tác sự hiện thực của cái huyễn thân là rồi đời. Tôi biết một số đồng đạo chúng ta thích cảnh xuân, tình xuân rộn rã, ăn uống no say nói nói cười cười thì chuyện tôi đề ra vui xuân bằng cảnh đạo, tình đạo có thể quý vị ấy cho rằng đặt không đúng chỗ. Bảo rằng, người ta đang tận hưởng sự vui chơi trong xuân mới mà tôi lại đem cái chuyện già, bệnh, chết ra làm mất hứng vẻ xuân đang độ nồng nàn quyến rủ. Nếu vậy cho tôi xin đem ra ví dụ: Như bạn đang vui ăn uống qua món ngon lạ mà trong món ngon lạ đó có độc, ăn vào sẽ sanh bệnh có thể dẫn đến tử vong mà bạn không biết. Người ngoài mâm tiệc biết trong thức ăn có độc khuyên bạn đừng ăn mấy món có độc đó. Không ăn thì không xảy ra bệnh hay chết thế đã làm bạn mất hứng sao? Hứng cho đã thèm để đi đến bịnh thì hứng có lợi ích gì? Bạn đang ăn ngon miệng có tin báo bọn ác dẫn quân từ xa đến sát hại, bạn ở đó ăn tiếp hay bỏ chạy? Bạn chạy thoát chết có cần phải nói người báo tin đã phá đám tiệc ăn của bạn không?
Đức Thầy bàn về vẻ xuân của năm Canh Thìn 1940 qua bài “Thi Xuân” có những câu như sau:
“Canh Thìn bước tới hỡi ai ơi !
Thế giới đao binh ruột rã rời.
Khốn nguy đa sự chào xuân mới,
Dân chúng hoàn cầu khó thảnh thơi.
=()=
Diệu vợi xa xăm nỗi khổ hoài,
Cuộc đời lao khổ thấy chiều mai.
Chợt ngó xuân sang xuân biết khóc,
Đến thời thiên định lối bi ai.”
Đức Thầy báo khổ xuân Canh Thìn đầy những câu đáng sợ “…Thế giới binh đao… khốn nguy đa sự chào xuân mới, chợt ngó xuân sang xuân biết khóc, ruột rã rời…”
Người đời vui chơi trong sự xài phí xa hoa, anh chiến binh vui vì đánh thắng trận. Chúng ta tu hành nguyện làm chiến sĩ như lai đánh thắng quân ma phiền não thì trong khi xuân đến, vui xuân mới ta cũng phải đường đường chính chính là chiến sĩ Như Lai, tiếp tục thượng lộ bình an đến mục tiêu trước khi già chết đến thì hết sức là vui xuân chứ còn gì nữa! Không lẽ vì vui với tết ta xin tỳ, cổi áo chiến sĩ Như Lai vui với cảnh xuân, xài phí xa hoa nhộn nhịp? Trong khi mặc áo chiến sĩ Như Lai ta đã tự nguyện với Phật một cuộc sống “Lạc Đạo An Bần” đi tìm chân lý. Giờ chân lý chưa tìm được mà giữa chừng cổi áo chiến sĩ Như Lai nhập cuộc với chỗ xài phí xa hoa, không lạc đạo an bần nữa.
Đức Thầy dạy người chuyên tu hạnh giải thoát trước tiên hãy giải thoát chính mình ra khỏi sự cám dỗ của vật chất như hai đoạn trích dẫn sau đây:
“Hãy tìm con đường giải thoát cho mình bằng cách lạc đạo an bần, xả thân tu tỉnh.”
“Hãy xa lánh những điều làm cho tinh thần bị đen tối; bỏ hết đài các xa hoa, thân mình tự chủ để tìm chỗ bất diệt bất sanh.”
Mỗi năm mỗi lên tuổi, đã ba bốn mươi tuổi trên đầu mà trí khôn không hơn gì trẻ em mươi, mười lăm tuổi làm sao tương xứng thông thường, bởi lẽ trẻ em mươi, mười lăm tuổi chưa gánh trọng trách với ai, chỉ có bổn phận là học giỏi cho cha mẹ mừng, yêu cầu vật chất của nó không nhiều, ăn uống ít, mặc đồ không hao vải, chưa biết xài phí trong khi người lớn ở tuổi hai, ba, bốn mươi chịu ảnh hưởng vật chất nhiều hơn, có trách nhiệm với cha mẹ, vợ con mà trí khôn không hơn thằng bé mươi, mười lăm tuổi thì làm sao biết kiếm tiền nuôi sống cho những người mình có trách nhiệm?
Đời vật chất văn minh tiến lên ồ ạc, những hàng hóa kiểu dáng mới hô hào về chất lượng, đúng mốt thời trang bày biện khắp nơi chọc mắt, khách thiền môn có qua lại mà không khéo gìn lòng thì cơ hội bị nhiễm trược nặng nề, bỏ trôi đạo đức. Vật chất tiến mà tinh thần đạo đức không được giương cao khỏi đó thì có ngày bị vật chất nhận chìm. Biết vậy, cứ mỗi độ sang năm, đón mừng xuân cũng nên kiểm điểm sự nghiệp tu hành của mình có tiến bộ hơn không, nếu sự nghiệp tu hành chưa lên cao hơn tuổi đời, đời nhiều thì nặng đời, đạo ít, đạo nhẹ bổng. Nặng đời, nhẹ đạo, nếu để trường hợp kéo dài đạo sẽ bị mất trong lòng, chừng hết sanh lộ đến tử lộ không có đạo đức đi cùng sẽ thua to. Đức Thầy diễn tả trạng thái ấy như sau: “…Kịp đến khi tử thần gõ cửa, số vô thường đã tới, sanh ra muôn ngàn kinh hãi, thần trí hôn mê rất tríu mến cõi đời, cửa nhà con vợ, mà không làm sao sống được nữa, nên lúc ấy kẻ phùng mang, trợn mắt, người chắc lưỡi, nghiếng răng, lăn lộn giật mình, kêu than thảm thiết. Xét coi lúc ấy khổ sở là dường nào.”
Nghiệm xét qua lời dạy của Đức Thầy tôi vừa trích dẫn, ta không nên vì vui xuân quá trớn mà đánh mất mình là Chiến Sĩ Như Lai.
22/2/2018

Thứ Sáu, 16 tháng 2, 2018


ĐÓN XUÂN

Đón xuân, nói theo cách hiểu thông thường là mừng năm mới đến, nhủ ý vui chơi với xuân, trẩy bỏ những gì không vui của năm cũ. Những người làm ăn thất bại nghèo khổ, cơm áo không xong, nợ nần chồng đống hoặc những người mang bệnh rề rề, chết không chết, sống không mạnh mẽ… mong nhận năm mới như làm mới lại cuộc đời, đẩy cái quá khứ không may đi mất tích.
Còn nhớ, tết năm Tân Tỵ, năm đó Đức Thầy bị quân Pháp đày đi lưu cư qua bao nhiêu chỗ rồi đến nhà thương Chợ Quán; vào bệnh viện nhưng Ngài không phải là bệnh nhân thành ra tâm trí thông dong tự tại, thương lê thứ thời buổi khó khăn, nghèo đói bởi sự cai trị của quân dị chủng Ngài cất bút đề thơ những bài có liên quan về tết với những đặc điểm như sau:
- Người làm ăn thất bại, nghèo thiếu, đất nước bị thôn tính dẫn đến mọi cái khó. Cuộc sống như bị bao vây cho rằng năm qua mình quá xui xẻo, mong năm mới đến để cổi lốt, xả xui. Đức Thầy viết bài “Ngày Tết” để nói lên tâm trạng đó:
“Tháng lụn ngày qua năm đã tàn,
Trẻ già nô nức đón xuân sang.
Chờ coi năm mới hên hay chẳng,
Chóng đạt công danh kẻo muộn màng.”

Trông năm mới đến xả xui, cổi lốt nghèo khổ mà chẳng làm gì ra hồn, nước nhà còn bị Pháp đô hộ, đày đọa nhân dân, ruộng vườn thiếu người chăm sóc giỏi, kết cuộc cũng không may mắn hơn:
“Thì ra năm mới như năm cũ
Cảnh khó dân đen vẫn tự tồn.”
Xuân đến, dựa vào ý nghĩa tết cổ truyền của quốc gia dân tộc, người ta nói, nghèo giàu gì cũng phải vui chơi thỏa thích trong ba ngày xuân nhựt, một số vui chơi tao nhã, một số sa đọa vào cờ bạc, say sỉn, chơi bời theo đàng điếm, để tự mình làm hư con người của mình mà kêu HÊN, CHÓNG ĐẠT CÔNG DANH sao được. Cũng trông vào tết đến, Đức Thầy viết thi phẩm “Cám Cảnh Dân Nghèo”để hỏi thăm lòng dạ của những ai chơi xuân bằng thú vui sa đọa:
“ Nhắn nhủ khắp nơi hỏi một bài,
Ba ngày xuân nhựt bởi nơi ai?
Rượu trà, cờ bạc, ôi phung phí,
Chẳng biết lệ xưa của ai bày?
Niềm ước mong năm mới được HÊN, CHÓNG ĐẠT CÔNG DANH mà va vào điều cấm kỵ của sự thành đạt thì cứ mà mơ ước mãi chứ không thành hiện thực. Nước mất không lo, nghèo đói không lo, chỉ lo vui chơi cho thỏa thích, trong những sự vui chơi thỏa thích thì hay vướng đọa thấp hèn, người vướng đọa là người mất tự chủ bản thân, tự mình làm XUI rủi lấy mình mà muốn cho HÊN thật là trái ngược. Uốn rượu, cờ bạc, chơi bời theo đàng điếm… phạm vào tứ đổ tường, tội thân chứ không phước thân, hỏi đời người sống được bao lâu nếu tội thân nhiều, phước thân ít mà muốn “Hên”, hên làm sao được? Đức Thầy viết “Thi Xuân” để nói lên ý nghĩa ấy qua những câu:
“Con người nguơn-hạ mấy nhiêu hơi,
Đạo-đức nhiệm-mầu chẳng có chơi.
Lê-la chậm bước đường bụi gió,
Phải sớm lánh xa khỏi cuộc đời.”
Do vậy, có vui mừng xuân mới đến, người biết đạo đừng để vui quá trớn, vì vật chất phù hoa làm tối tăm mày mặt mà đánh mất mình vào những chỗ hư hèn. Muốn được thoát khỏi hư hèn, không lún sâu vào tội lỗi thì trong việc vui xuân là xuân đạo, đừng để tâm thần trôi nổi bềnh bồng bên những món ăn sang, sắm dọn hực hở mà vọng tâm chuyền níu hết cái nọ đến cái kia. Vui xuân là vui với đạo, lên tuổi đời đồng lúc cũng lên tuổi đạo. Người ta bảo, tuổi đời càng cao là càng có nhiều kinh nghiệm, cứng cát về đối đãi với cuộc sống có muôn màu muôn vẻ mà không có màu nào, vẻ nào, đưa người ta đến tội lỗi hư hèn. Người đạo lên tuổi đạo cũng thế, nhiều kinh nghiệm và cứng cát để phiền não không phủ dụ hay xô ngả giữa chừng trên đường về Tây Phương hay trên lộ đồ từ mê sang giác. Đức Thầy dạy chúng ta đón xuân ý nghĩa rất hay:
“ Bước qua năm mới, mới mừng à,
Khuyến khích dân tầm đạo Thích Ca.
Tự giác giác tha ta phải nói,
Hỡi người dương thế bớt xa hoa.”
Ai cũng biết, nguyên Phật Thích Ca là một đông cung Thái Tử, sống trong cung vàng điện ngọc, ăn sang mặc trọng không ham, chỉ ham tìm đạo giải thoát. Thái tử bỏ tất cả xa hoa một mình vào núi tuyết sơn thiền định đắc đạo, hiệu Thích Ca Mâu Ni. Câu “Bước qua năm mới… khuyến khích dân tầm đạo Thích Ca”, nhủ ý khuyên chúng sanh theo gương Phật Thích, lánh cõi trần ai giả tạm, danh vị quyền cao. Sĩ Đạt Ta là người kế nghiệp ngôi vua, lâu đài, cung phi mỹ nữ có sẵn để phục vụ bất cứ lúc nào mà Ông còn không ham, đừng nói chi chút ít vật chất xa hoa trong ba ngày xuân nhựt mà chọc ghẹo được lòng tham vọng, cặn cáo phiền não nổi lên.
“Hỡi người dương thế bớt xa hoa” là tiếng kêu thức tỉnh những hành giả đi theo hướng Phật. Xa hoa làm va chạm lòng từ bi của Phật, Phật tử. Thế gian còn rất nhiều người đói khổ mà ta lại ăn xài phung phí sao đành lòng. Nếu luận theo thế gian, Đức Thầy là Phật từ cõi Phật lâm phàm, đáng lý phải dùng luận đề bảo vệ lập trường chúng sanh đến chùa bái Phật cầu kinh tụng pháp, chủ trương cất chùa, làm trang hoàn, trang nghiêm ngôi thờ Phật mới đúng, nhưng Đức Phật đã không màng đến chuyện cất chùa thờ Ngài, Phật luôn luôn có lòng từ bi với chúng sanh chứ không phát lòng từ bi với chùa và các Phật tượng trong chùa. Từ bi với chúng sanh nên Phật lâm phàm độ chúng sanh là chính:
“Hãy giúp cho kẻ khó mới nhằm.
Đến loạn ly khổ hạnh khỏi lâm
Còn hơn đúc chuông đồng Phật bự.”
“Giúp người đói khó nhu mỳ,
Dạy nó tâm trì Niệm Phật làm ngay”.
Quý vị đến tôi trong dịp xuân về để huynh đệ chúng ta cùng nhau niềm nở đón xuân, chúc toàn những điều tốt đẹp cho năm mới. Như vậy là chúng ta đã hứa hẹn sự tốt đẹp cho năm mới nầy! Hứa hẹn thì phải giải quyết lời hứa một cách tích cực để tránh đi cái bệnh “hứa suôn”. Là người đạo, gìn đạo để tu hành chớ không phải để chứng minh mình có đạo. Tuổi đời mỗi năm già thêm mà tuổi đạo không cứng cát chắc chắn thêm, trong cuộc chơi nếu không trên cơ với quân phiền não thì cũng ngang tầm ngang sức, không như vậy đố khỏi bị vật dục phiền não đẩy lùi.
Mùng 2 Tết Mậu-Tuất – 17/2/2017

Thứ Hai, 12 tháng 2, 2018


GIÚP XONG QUÀ TẾT

Thấy nhân dân ta giàu nghèo còn chênh lệch quá xa. Những ông chủ nhà giàu dám bỏ tiền ra mua thứ để ngắm cho sướng con mắt mà tốn năm bảy chục triệu, hoặc vài trăm triệu một chậu kiểng, họ ăn xài thiệt là phung phí. Trong khi ở gần họ có nhiều hộ bà con rất nghèo, làm mướn kiếm sống qua ngày hoặc đi bán vé số, mót bọc mủ, lượm ve chai… vật lộn với đời sống, vất vả lắm để giải quyết cái ăn cái mặc vừa đủ còn không có nói chi là ước vọng cao xa.
Chùa bây giờ cũng khá là giàu sang. Đọc kinh sách nhà Phật xưa, khi nói đến chùa người ta cứ nghĩ là nơi trang nghiêm thanh tịnh, không phô trương hình tướng, là chỗ để cho các vị ẩn tu lạc đạo an bần, bá gia thiện tín có đến cúng chùa nhờ ảnh hưởng sự trang nghiêm của các Tăng Ni mà thanh tịnh, cảm nhận được sự trong sạch từ đáy lòng. Chùa nay nói đến xây cất là tiền tỷ, nhỏ cũng năm bảy trăm triệu đổ lên, rút khá tiền đóng góp trong dân để dựng chùa. Có lẽ cũng tại thiện tín mà ra, không mấy người thích đến chùa nghèo nên các Tăng Ni phải tạo chùa to cho vừa lòng đẹp dạ thì họ mới thường xuyên đến bái Phật nghe kinh. Tội nghiệp cho những nhà nghèo, một bộ cột nóng bằng cây, chôn chân lâu ngày mục rửa nghiêng quỵ, chỉ vài chục triệu để thay bộ cột cây mới mà làm mướn đến trầy da phỏng trán có khi còn chưa đủ tiền thay. Thiện tín đi cúng chùa là đi ngang qua nhà nghèo ấy nhưng không động lòng thương hại, nhà nghèo ấy có người bệnh nằm liệt trên giường không có tiền đi nhà thương cứu mạng cũng thây kệ họ. Đạo PGHH, Đức Thầy chủ trương tín đồ tu niệm tại gia, không cất chùa nhưng trong nhà có trang hoàn ngôi thờ Tam Bảo. Ba ngôi báo PHẬT PHÁP TĂNG có ngay trong nhà không cần cất chùa thờ riêng cho hao tốn, hãy để sự hao tốn ấy giúp đỡ người bất hạnh, nghèo đói, bệnh tật:
“Khùng cả tiếng kêu dân ơi hỡi
Hãy giúp cho kẻ khó mới nhằm.
Đến loạn ly khổ hạnh khỏi lâm
Còn hơn đúc chuông đồng Phật bự.”
Sống trong khuôn vàng thước ngọc của PGHH thể theo lời dạy của Đức Thầy:
“ Việc nhà quý bạn đã xong,
Hiệp nhau làm phước rõ lòng hiền nhơn.”
Vì ý chỉ “Hiệp nhau làm phước” nói trên, tôi muốn đóng góp chút công sức hiệp cùng với quý vị nào cảm thấy “việc nhà” mình tạm xong, nhen nhúm chút của ít lòng nhiều mà nhớ đến những người kém may mắn hơn mình đang đối đầu với cái TẾT đến bị cảnh nghèo thiếu bao vây, trên bàn thờ cúng Ông Bà lạnh tanh khói hương, không dâng món chi mời Ông Bà về ăn tết. Họ thiệt là bất hạnh!

Xét làng quê ta còn có rất nhiều bà con nghèo thiếu, làm việc suốt năm mà tết đến cũng chưa chắc hưởng được cái tết thảnh thơi về cơm gạo. Viết bài KHUYÊN NGƯỜI GIÀU LÒNG PHƯỚC THIỆN Đức Thầy diễn tả sự nghèo đói của nhơn dân trước thãm cảnh nhà nông làm ăn thất mùa, ruộng đồng bị chìm ngập “Tiền nông chẳng có cơm lường cho qua”. Trông vào hoàn cảnh túi không tiền, ăn thì dùng cơm lường cho qua bửa, thật đáng thương! Bởi đó Đức Thầy kêu gọi hảo tâm của những người giàu sang:
“Khuyên những kẻ giàu sang có của,
Hãy mở lòng thương sót dân nghèo.
Cảnh vinh hoa thiệt quá cheo leo,
Nhà giàu có sau nhiều tai ách.”

Muốn giúp cho bà con nghèo ăn tết vui vẻ. Bà con đông, một mình không thể làm được việc lớn, rất cần có nhiều người hiệp lực nên tôi phải “Rủ nhau làm phước”. Thật là may mắn! lời kêu gọi xin giúp bà con nghèo ăn tết của tôi được các nhà hảo tâm đồng ý, ủng hộ tài vật làm cho chuyến công tác từ thiện giờ đạt kết quả tốt, số lượng vượt mức yều cầu. Từ khởi sự, quyết tính một trăm phần quà cuối cùng đã lên đến 150 (một trăm năm mươi phần), mỗi phần trị giá hai trăm năm chục ngàn, gồm có: mười ký gạo, một chay dầu ăn, một bịt bột ngọt, một ký đường cát trắng, mười gói cà fe nét, mười cái bánh phồng, một gói kẹo thèo lèo và năm mươi ngàn tiền mặt đã đem phát xong vào ngày 12 tháng 2 năm 2018 nhằm 27 tháng chạp 2017 với hai địa điểm: Bà con nghèo thiếu miền Thất Sơn và rải rác những hộ nghèo miền quê đồng bằng.
Chuyến từ thiện nầy có sự cộng tác tích cực của nhiều huynh đệ làm tôi rất vui nên tôi đặc biệt chú ý. Lời yêu cầu giúp quà tết cho bà con nghèo đã đến tai hai chủ tiệm tạp hóa, nhị vị xin tôi cho lãnh mua hết các thứ trong gói quà bằng giá gốc hoặc may mắn thấp hơn giá gốc do tài thuyết phục của nhị vị với chủ dựa, nhà kho rằng: đây là hàng cung cấp từ thiện. Ngay hôm đó, trước mắt tôi nghe thấy một chủ tiệm gọi điện thoại hỏi mua gạo tại kho và nói rõ thêm rằng mua gạo nầy đi phát thí cho bà con nghèo ăn tết. Phía nhà kho trả lời: gạo 504 giá tám ngàn rưởi một ký, còn thứ gạo khác (tôi quên tên) nói là giá 9 ngàn. Chủ tiệm ý kiến với tôi là nên mua loại gạo giá 9 ngàn cơm ngon hơn. Tôi đồng ý.
Thật sự thì tôi mua gạo ăn, thứ gạo 504 ở kho tám ngàn rưởi nhưng tôi mua ăn giá tới mười ngàn rưởi. Nếu vậy, gạo giá 9 ngàn ở tại kho phải là 11 ngàn khi mua ăn ở quê. Một trăm năm mươi phần quà là một ngàn năm trăm ký gạo, mỗi ký bớt lại hai ngàn, bà con mình nghĩ thiệt là quí phải hôn? Các thứ hàng khác ví dụ như đường cát chẳng hạng, đến kho mua nguyên bao năm mươi ký về chịu cực một chút công, chia ra sẽ ngợi hơn đi mua từng ký ở tiệm.
Điều tôi phân tách, quý vị nhà giàu hoặc vô tình có thể coi đây là việc làm nhỏ nhặt, nhưng chúng tôi với mục đích “Rủ nhau làm phước” thì rất cần sự hợp tác từ thiện của nhiều người, một chút phước cũng tốt. Kẻ đóng góp tiền của, người đem công lao ra đổi hoặc chỉ lời nói giúp vào công cuộc từ thiện là quí rồi. Làm được điều thiện vì người nghèo khiến tâm tình cởi mở, cảm tình nẩy nở, biết suy nghĩ đến cuộc sống nghèo khổ vất vả của người khác. Trong tương lai, dần dần kẻ thiếu người dư sẽ bớt đi khoảng cách, xóm làng vui hơn, nhà nhà có nhiều tiếng cười, nụ cười thú vị hơn.
Nay tôi viết bài gởi đến quý vị như bảng báo cáo làm xong công việc từ thiện vì người nghèo, đồng thời gởi lời cám ơn quý thí chủ đã mạnh tay của ít lòng nhiều ủng hộ tài vật, giúp chúng tôi hoàn thành điều mong ước bấy lâu đè nặng trong lòng. Tôi sử dụng từ “mạnh tay” để cảm lòng với quý vị ở chỗ người xưa nói “lá lành đùm lá rách” trong khi một số quý vị không phải là lá lành đùm lá rách mà là lá rách ít đùm lá rách nhiều; ở vào trường hợp nầy, nếu không mạnh tay không thể nào xông pha vì người nghèo khác. Xin cám ơn quý vị thiện nguyện viên đã cùng tôi tổ chức chu đáo một chuyến xe chở đầy tình thương lên miền Bảy núi.
Nguyện cầu ơn trên Đức Phật Đức Thầy từ bi ban bố phước lành cho các thí thủ, các thiện nguyện viên và những hộ bà con nghèo nhận được phần quà tết.
Kính chúc quý vị thân tâm an lạc.
NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT.
13/2/2018



Thứ Sáu, 9 tháng 2, 2018

LẮNG ĐỌC TÂM SỰ CỦA ĐỨC THẦY

Hôm nay tiếp chuyện với chư đồng đạo, tôi cảm nhận tinh thần thương Thầy lo Đạo của quý vị rất đáng yêu đáng kinh. Xin trân trọng đề cao hạnh cách vì đạo vì Thầy của quý vị làm biểu mẩu hướng dẫn chúng ta cùng thực hành lời dạy “Dìu dắt lẩn nhau vào con đường đạo đức”. Về phần mình, xin quý vị hoan hỉ cho tôi bày tỏ tấm lòng thương Thầy lo Đạo qua suy nghĩ của tôi, hy vọng cách suy nghĩ nầy được đồng hành cùng quý vị, điểm tô sự nghiệp Phật Giáo Hòa Hảo giữa lúc Đức Thầy biền biệt chưa về.
Sự đóng góp của tôi hôm nay là gợi nhớ chuyện xưa, chuyện Đức Thầy sáng tác bài Sa Đéc. Sự thật thì bài viết nầy cũng như nhiều bài viết khác Đức Thầy không đặt tựa. Vì muốn bài có tựa cho đồng đạo dễ tìm đọc, Ban Trị sự trung ương giáo hội PGHH tạm đặt tên những bài viết ấy. Bàn đến bài viết không có tựa nầy vì Đức Thầy sáng tác tại Sa Đéc vào đêm rằm tháng 4 năm Canh Thìn, nên BTS dựa vào đó đặt tựa là SA ĐÉC, để khi cần tìm, vào mục lục là gặp ngay.
Bài Sa Đéc đánh dấu móc thời gian quan trọng của sự biến chuyển Thầy Tớ chia xa và sự chia xa nầy kéo dài tới 5 năm như Lời Nói Đầu cho quyển Sáu Đức Thầy Viết:
“Năm năm trường xa cách, cái chánh sách áp bức tôn giáo gắt gao của người Pháp làm cho tôi không được gần gũi các người hầu giải bày tường tận tôn chỉ hành Đạo của tôi.
Ấy không phải vì tôi cố ý muốn xa lánh các người, song chẳng qua vì sự bắt buộc của kẻ cường quyền nên tôi và các người không được trực tiếp cùng nhau.”
Đúng như lời tiên tri của Đức Thầy khi viết bài TỪ GIẢ BỔN ĐẠO KHẮP NƠI vào ngày 1 tháng 4 Canh Thìn như sau:
“ Thấy trong bá tánh ngẩn ngơ,
Nay Thầy xa tớ bơ vơ một mình.”
Và câu:
“Từ nay cách biệt xa ngàn
Ai người tâm đạo đừng toan phụ Thầy.
Giữa chừng đờn nỡ đứt dây
Chưa vui buổi hiệp bổng Thầy lại xa.”
“ Từ nay cửa Khổng gài then
Chờ ta trở lại thì đèn hết lu.”
Thế là 11 ngày sau, tức ngày 12 tháng 4 Canh Thìn, Ba Zin, tên quan cò Pháp, mới sáng sớm đã đến nhà Đức Ông triệt buộc Đức Thầy phải theo họ và ngay hôm đó đến Sa Đéc. Sau 3 ngày, vào đêm rằm tháng tư Canh Thìn Đức Thầy hạ bút bài không đề tự nói trên. Khởi đầu của bài viết ta đọc thấy những câu rất cảm lòng:
“Nhìn cuộc thế bộn bề sóng dậy,
Cửa thiền-môn còn hỡi khóa then.
Nương xứ xa tạm viết với đèn
Tỏ tâm sự của người liễu đạo.”
Ngay lúc Ngài bị quân Pháp bắt đi, có sự chứng kiến của đông đảo tín đồ chờ nghe Đức Thầy giảng đạo, hoặc phát lễ quy y cho thiện nam tín nữ mới. Tâm sự của người liễu đạo được Đức Thầy dàn trải khắp bài viết, Sa Đéc là điểm bị đày đi đầu tiên của “năm năm trường xa cách”. Buổi hội ngộ nầy ta không đủ thời gian bàn nốt sự dàn trải khắp ấy, chỉ nên gói ghém 4 câu đầu phần nhập đề mang tính đặc trưng tâm sự, và sau đó, Ngài đã thổ lộ trong phần nội dung:
“ Đành tách gót lìa quê hương dã.
Ta cũng chẳng lấy chi buồn bã,
Bởi sự thường của bực siêu nhơn.
Dầu gian lao dạ sắt chẳng sờn,
Miễn sanh chúng thông đường giải thoát.”
Cuộc Thế: Cuộc đời, thế gian, cảnh tượng đang xảy ra.
Bộn Bề: Ngổn ngang, lu bu, ví dụ đồ đạc trong nhà để lộn xộn, bừa bãi, không thứ lớp đâu vào đâu: ở đây nhằm chỉ thời cuộc rối beng khiến dân chúng không yên.
Sóng Dậy: Nguyên của sóng là nước, bình thường mặt nước phẳng yên cho các tàu thuyền qua lại trên sông biển, nhưng thinh không nổi trận gió đùa, mặt nước phẳng lặng bổng chóc sóng dậy, những tàu thuyền (nhân sanh) chìm ngập trong lo sợ, bất an.
Cửa Thiền Môn: Nói hẹp là cửa chùa, nên thế gian hễ có người xuất gia đi tu là vào chùa hoặc Tịnh Xá chuyên trì công phu tịnh nghiệp. Nói rộng, Cửa Thiền Môn là cửa vào đạo. Đạo ở đây là đạo Phật vì Thiền Môn là danh từ trong giới Học Phật thường dùng.
Khóa Then: Đóng kín cửa, cài then cửa cho cứng chắc, người khác không mở được.
Đại ý hai câu trên: Giữa lúc thế sự ngổn ngang, lu bu lộn xộn, nào là chiến tranh xâm lược của ngoại địch, cường độ của đệ nhị thế chiến dâng cao, nhân dân Việt Nam bị quân Pháp đặc quyền cai trị, sự sống khó khăn nghèo thiếu, đáng là lúc cho Đức Thầy dỗ an lê thứ bằng “Xông thuyền ra cứu vớt sanh linh”. Cứu vớt sanh linh chưa đầy một năm, 18 tháng 5 Kỷ Mão 1939 - 12 tháng 4 năm Canh Thìn chủ quận Tân Châu với tên cò Bazin đến nhà Đức Ông tự tay khóa cửa thiền môn PGHH trước hàng trăm bá tánh chờ nghe Đức Thầy giảng đạo, phát lễ quy y cho bổn đạo mới.
Nương Xứ Xa: Pháp đày Ngài qua cuộc sống lưu cư, ở chỗ không quen không biết và đến đâu cũng không được tiếp xúc với người ngoài, nhất là những người muốn gặp Đức Thầy để nghe giảng đạo hoặc xin thọ giáo quy y.
Tạm: mượn dùng đỡ
Viết với Đèn: Viết: dùng chữ thay cho lời nói, Đèn: Lúc Đức Thầy viết bài nầy Trời đã về đêm, cần đèn phát sáng. Ý nói, không còn cơ hội giảng đạo cho thiện nam tín nữ nghe, cánh cửa tự do tôn giáo đã bị quân Pháp “khóa then”, bằng cách đem giấu kín Ngài ở nơi xa lạ để cắt đứt liên lạc giữa Ngài với quần chúng mộ đạo. Không được tự do ra ngoài giảng đạo thu nhận tín đồ, qua đêm trường tịch mịch, cậy vào ngọn đèn phát sáng trong phòng, Ngài phải tạm dùng chữ thay lời nói trấn an bổn đạo:
“Nay thân Thầy cũng đặng bình an
Khuyên bổn đạo đừng than lắm tiếng.
Tuy xa đường có lời luận biện,
Bởi bút thần bay luyện khắp nơi.”
Hoặc:
“Ta còn thương, thương trò lịu địu,
Chớ cũng mừng được dịp phổ thông.”
Tỏ: Muốn cho người khác biết: bày tỏ, thổ lộ tâm tình thầm kín
Tâm Sự: Nỗi niềm riêng mang trong lòng vì thương bá tánh mà không gần gủi để dạy dỗ, không nói được, đành phải viết ra.
Người Liễu Đạo: Liễu: xong, rồi công việc. Đạo: con đường đi đến Chân, Thiện, Mỹ. Liễu Đạo tức hành giả qua tu hành đạt kết quả rốt ráo, nghĩa như đắc đạo. Đức Thầy có câu:
“Cảnh an nhàn của người liễu đạo, muôn ngày vô sự, lóng sạch phàm tâm, sao chẳng ngồi nơi ngôi vị hưởng quả Bồ Đề trường thọ mà còn len lỏi xuống chốn hồng trần, đặng chịu cảnh chê khen?”
Đại ý hai câu sau: Quân Pháp để mắt theo Đức Thầy, thấy sức ảnh hưởng quần chúng đến với Ngài ồn ào náo nhiệt mà phát sợ, họ không dám để yên cho Ngài tiếp tục giảng đạo, lên kế hoạch buộc Ngài phải rời xa làng Hòa Hảo đến một nơi khác và nơi khác nữa… Không còn trực tiếp giảng đạo cho đồ chúng nghe, từ đây cơ phổ hóa nhơn sanh phải nhờ vào giấy mực, tỏ bày lòng thương tưởng chúng sanh:
“Ta cũng chẳng lấy chi buồn bã
Bởi sự thường của bực siêu nhơn.
Dù gian lao dạ sắt chẳng sơn,
Miễn sanh chúng thông đường giải thoát.”
Kết Luận: Quân Pháp xâm chiếm Việt Nam, cướp quyền tự do tôn giáo. PGHH là một tôn giáo phát sinh từ lòng lịch sử dân tộc. Pháp rất sợ sự ủng hộ của nhân dân đối với tôn giáo bản địa nầy nên đã cố tình khóa cổng gài then cánh cửa tự do tôn giáo của PGHH, lưu cư Đức Thầy rời xa bổn đạo. Bị bắt đi một cách vội vàng, không nói kịp lời từ giả. Đến Sa Đéc, sau ba ngày, nơi cô phòng giữa lúc đêm về, Đức Thầy mượn bút mực bày tỏ tâm sự cùng bá gia thiện tín qua bài viết không đề tựa nói trên.

10/2/2018

Thứ Ba, 6 tháng 2, 2018

NIỆM PHẬT CŨNG PHẢI GIỮ GIỚI

Tòa nhà của đạo Phật được xây lên từ Giới Định Huệ, ai muốn vào tòa nhà nầy phải phủ lên thân tâm mình ba món công đức ấy mà Giới được sắp làm một chiến tướng đi đầu dẹp an (Định) mới phản chiếu ánh sáng (Huệ) thì sự sự vô ngại pháp giới hoàn hảo. Đạo Phật đưa ra nhiều pháp môn dạy chúng và pháp môn nào trong khi hành đạo, Giới, Định, Huệ cũng ở ngôi chủ. Nay tôi xin trình bày với quý vị về giới cấm tức nói qua khả năng của một chiến tướng đi đánh trận đầu. Như ta thấy pháp môn Niệm Phật được Đức Phật Thích Ca giới thiệu và ca ngợi tán thán công Đức của vị Phật giáo chủ cõi Tây Phương, đề ra phương pháp dễ tu nhất vì chỉ có niệm NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT là được, không đợi học thuộc nhiều Kinh Kệ, lấy bằng Phật học gì gì. Hành trì pháp môn Niệm Phật, người ta sẽ không bàn đến hành giả của pháp môn nầy có học hay vô học, thông minh hay khờ khạo. Nam Mô A Di Đà PHẬT chỉ là NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT không cần giải thích, bởi lẽ, hành giả của pháp môn nầy cần chánh niệm hơn là sự giải thích, vì giải thích làm mất Chánh Niệm. Ở chỗ không cần giải thích mà sanh nhiều sự giải thích, bắt buộc hành giả phải áp dụng biện pháp dùng giới cấm ngăn chận sự giải thích lại trong khi đang Niệm Phật và đề cao sự giới cấm lên hàng đầu, chặt đứt mọi ý niệm, lý lẽ, để không bị chúng quấy rối trong khi đang hạ thủ công phu. Đức Thầy dạy:
“ Gìn giới cấm sửa tâm ô tạp
Niệm Phật thì phải diệt lòng tà.”
Tâm ô tạp là cái tâm đụng đâu cũng dính mắc, ô nhiễm tạp nhạp, không có phương thức, hàng ngũ, kỷ luật… gì cả. Cuộc đời cứ bị sóng gió mãi, hết trận sóng gió nầy đến trận sóng gió khác, trên thuyền đi qua bờ giác lúc nào cũng bị chao đảo, lắc lư, đe dọa nhận chìm. Cái tâm ô tạp nặng nề như vậy, để lâu trong lòng thì mỗi lúc vi cánh nó thêm nhiều, lực lượng hùng hậu của chúng có thể ép ta bỏ tu, bỏ cái ước mong vãng sanh Cực Lạc mà nhiều năm qua ta luôn theo đuổi.
Trước mắt ta, không phải đã có khá nhiều người tu bỏ cuộc giữa chừng rồi sao! Trong số họ đâu phải không có người thông minh tiếng tăm lừng lẩy một thời, mười năm, hai mươi năm, ba mươi năm… đường tu lâu như vậy, chỉ một phút sơ hở, cái tâm ô tạp nó đột nhập vào căn cứ mà ta không phát hiện kịp thời để đuổi chúng hay làm cản tay cảng chân trì trệ sự phát triển thì chúng hất chúng ta văng. Nếu chúng bị cảng thì độ tiến công của chúng không nhanh, ta còn thời gian may ra có cơ hội gở được nước cờ bí, lấy lại công phu Niệm Phật. Hành giả Niệm Phật mà ngay khi đó tâm ô tạp chen vào đồng hành cũng dễ dải bỏ qua việc đuổi khách, khách càng ở lâu, chúng càng bành trướng lực lượng, lấn đất giành quyền. Lấn chỗ thường còn đỡ, đến khi ta cúng nguyện, Niệm Phật mà chúng ô tạp cũng lấn đất giành quyền nữa thì lúc ta cúng đâu phải là cúng Phật và thay vì Niệm Phật là niệm chúng.
Để cho chúng lấn đất giành quyền lâu ngày, đến cử ngồi Niệm Phật nó đứng chần dần ra đó thì niệm nó chứ có Niệm Phật được đâu? Chúng soán ngôi đẩy ta đi càng xa pháp môn, mất phương hướng vãng sanh Tây Phương, leo núi chưa đến đâu thì chúng đá văng xuống.
Đừng nói là tu hai, ba mươi năm thì gốc gác cứng như tường đồng vách sắt, lở có sơ hở chúng cũng không đẩy lật nổi. Ta tu hai, ba mươi năm mà Pháp Lành không hỗ trợ Tâm Lành, cứ hiện pháp ác mãi thì tâm lành phải ẩn khuất còn đâu nữa xưng cho dữ? Tu mà pháp lành không hỗ trợ tâm lành hành giả thật là cô độc như người lính chiến ở giữa vòng vây giặc. Nói pháp lành tâm không lành, luận pháp bén ngót, nghe thấy không có chỗ hở, cái gì cũng không không còn tâm thì thích đủ thứ, pháp thanh nhưng tâm dính đầy trược, hành động trược… tâm dính đầy trược, hành động trược, đụng chuyện ta chỉ có mình ta thôi, không được đức lành kề vai tiếp sức trong khi tâm ô tạp ta để cho nó mỗi lúc chiu binh mãi mã thêm đông, ta sức một chọi mười, chọi một trăm làm sao thắng nổi. Ta bị chúng đạp rớt xuống núi là phải thôi. Có vị rớt xuống núi, thua cuộc nhưng vẫn giữ kỹ niệm với tương chao tàu hủ, có vị hai, ba mươi năm tu, hễ chịu xuống núi rồi thì tương chao tàu hủ mấy mươi năm cũng văng sạch bách ra.
Để trừ được cái “Tâm Ô Tạp” nầy, tu hành cho đến nơi đến chốn, theo Đức Thầy, chỉ phải giữ giới cấm mới chu toàn, thượng lộ bình an. Giới cấm như làm hàng rào ngăn chận sự xâm nhập của quân ô tạp. Trong lúc Niệm Phật là lòng chỉ có Đức Phật thôi, không niệm gì khác, tất cả niệm ngoài niệm Phật đều là quân ô tạp cần phải chận đuổi quyết liệt. Làm sao cho tiến độ tu hành tăng lên chứ không sụt giảm, nếu hoàn cảnh có xảy ra nhiều chướng ngại không tiến lên bậc thang kế tiếp thì ở tại chỗ “Cấm sào trì chí” chứ đừng hoản sợ bỏ chạy lui về. Tập sự tu hành trở nên bén nhạy, bén để chặt đứt những mối nhợ của phiền não, nhạy là khi phiền não tràn vào là hay, nhờ đó phát hiện sự có mặt của quân ô tạp trong khi hành đạo, hay là hành động liền theo đó tức khắc sẽ mất chúng. Nhạy hay như vậy chúng chẳng những không kịp phá hại được gì mà còn bị đuổi đi nhanh chóng.
“Niệm Phật thì phải diệt lòng tà”. Như chúng ta biết, ô tạp là sự tổng hợp của nhiều thứ chướng, tâm ô tạp là tâm bị nhiều thứ cảm nhiễm; nay nhiều thứ cảm nhiễm đó bị hành giả giữ giới cấm chận đuổi, sự lu bu nhiều manh mối không còn, bấy giờ trong Niệm Phật chỉ còn có tà và Chánh xen nhau. Chánh đây là Chánh Niệm, tà là tà niệm. Người tu pháp môn Niệm Phật là muốn giữ Chánh Niệm liên tục, do vì ý muốn và việc làm không cùng nhau, nói là liên tục Niệm Phật chứ không có liên tục, tạo kẻ hở cho tà niệm xông vào hoành hành không hay không biết. Tà niệm ở lâu sẽ thêm vi cánh, chúng lấn sân và tăng dần cường độ độc chiếm để thời giờ ta nói là Niệm Phật lại niệm chúng nhiều hơn mà ta không hay.
Xét qua hai câu giảng nêu trên, chúng ta hiểu Đức Thầy có nhủ ý rằng: đừng tưởng Niệm Phật không là được. xưa nay người tu niệm Phật có cùng hai mục đích: một là, vãng sanh về cõi Phật ngay sau lúc lâm chung, hai là, Niệm Phật để tìm lại Phật của chính mình. Trong thời gian chưa được vãng sanh mà Phật của chính mình cũng chưa xuất hiện, đâu dễ an khi ta biết cõi thế gian là cõi khổ, sanh lão bệnh tử là khổ nhưng nhiều người trong chúng ta quá đam mê vào cuộc sống thế gian đến đổi quên cầu vãng sanh, quên tìm Phật chính mình. Hành giả của pháp môn Tịnh Độ đúng với ý nghĩa là chí thành Niệm Phật, ngay cả trong tứ oai nghi đi, đứng, nằm, ngồi Đức Thầy cũng nhắc nhở “Rán niệm chớ quên không đợi gì thời khắc. Là hành giả ta tự nhắc nhở mình “Rán niệm chớ quên” nhưng ta hay quên. Một trong tứ oai nghi là Tịnh Tọa, cái thế đã vào bài bản vững chắc hơn hết trong ba oai nghi kia: đi, đứng, nằm, phần nhiều chỉ là lý thuyết nhằm khuyến tấn đừng quên lảng việc hành trì. Niệm Phật là điều được nhắc nhở trong tứ oai nghi cho ta không quên nhưng ta lại quên, hay có Niệm Phật mà quên nhớ Phật để nhớ những gì khác đều là do cái thói quen của tâm ô tạp phủ chụp một màu đen lộn xộn, nếu hành giả tự đề cao sự giữ giới phủ lên đời tu niệm, cử công phu tịnh tọa sẽ dễ dàng vào Chánh Niệm.
Đức Thầy dạy: “Cần tu thập thiện thì sự Niệm Phật mới có hiệu quả. Tu thập thiện, dứt được thập ác (cũng họi là tịnh tam nghiệp)”. Vậy Niệm Phật cũng phải cầu tịnh tam nghiệp, tịnh tam nghiệp là kết quả của sự giữ giới.
“Cầu tịnh ba nghiệp xong xuôi
Tây Phương quyết đến chung vui Phật Đài.”
“Ác trừ xong hiện ra thiện nghiệp,
Lóng nguồn chơn Phật tiếp dẫn cho”.

07/2/2018

Thứ Sáu, 2 tháng 2, 2018

NHÌN THỜI CUỘC
Bạn tôi trông qua thời cuộc, tình hình biển đông có biểu hiện chiến tranh kế một bên, phát lo sợ nói với tôi. Các nước trong khu vực chuẩn bị sẵn vai trò tác chiến bằng cho quân đội tập trận thông thuộc, nhạy bén để xử dụng mục đích chiến trường nếu xảy ra tình huống bất ngờ của cái họa xâm lăng. Ở vào thời đại công nghệ thông tin siêu tuyệt, chỉ với cái máy điện thoại cầm tay biết được những lực lượng quân sự hùng hậu của Hoa Kỳ, Hàn Quốc, Trung Quốc, Nhật Bản, Bắc Triều Tiên… đã muốn ăn thua giải quyết tranh chấp biển đông của nhiều quốc gia có chủ quyền. Việt Nam là một trong số nhiều quốc gia đó đã bị ảnh hưởng nặng nề về hải đảo Hoàng Sa, Trường Sa của mình đã bị Trung Quốc lấn chiếm. Biết bao ngư dân Việt Nam đi đánh bắt cá trong vùng Trời Biển của mình bị phía Trung Quốc bắt chuộc mạng hoặc giết chết.
Việc tranh chấp ở vùng biển đông càng leo thang và mỗi lúc trở nên phức tạp. Trung Quốc xâm chiếm Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam tự dựng đảo Nhân Tạo, khiến đường vận chuyển hàng hải của các quốc gia thu hẹp và chịu sự kiểm soát của Trung Quốc. Việt Nam bị hại mất biển đảo thì Việt Nam là vai chính tống cổ quân xâm lấn về xứ họ cho yên, nhưng nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam quá yêu chủ nghĩa Cộng Sản không muốn làm mất lòng nước cộng sản đàn anh, đàn thầy nên không thoát khỏi sự kìm kẹp của Trung Cộng. Tội nghiệp những ngư dân đi bắt cá trong nước của mình bị tàu Trung Cộng rượt bắn chết mà chánh phủ mình chỉ dám nói “Tàu lạ” thôi. Việt Nam cho dù có nhường chưa chắc các quốc gia trong vùng chịu nhường Trung Cộng lên ngôi bá chủ muốn làm gì thì làm, muốn trừng phạt ai là trừng phạt. Vì lợi ích của quốc gia qua mậu dịch hàng hải chiến tranh khu vực biển đông sẽ bùng nổ.
Trời chuyển thì ắt có mưa. Anh nói anh rất sợ chiến tranh, vì từ xưa nay đất nước rơi vào chiến tranh làm chết người rùng rợn, có người sống còn sau cuộc chiến thì thương tật đầy mình mà phải sống với cảnh nhà tan cửa nát, tàn phá mùa màng ruộng vườn, gieo họa đau thương cho bá tánh.
Tôi cũng nghĩ như anh vậy, không muốn có chiến tranh để nhân dân an cư lạc nghiệp, cơm no áo ấm, nhà nhà hạnh phúc sống vui vẻ hết một kiếp người. Nhưng chúng ta quá nhỏ bé mà kêu mấy ông lãnh đạo quốc gia nhứt là những ông lãnh đạo quốc gia xua quân đi cướp nước, kêu các ông đừng gây chiến tranh thì tiếng kêu của ta hết sức là đơn độc đối với các quốc gia chuẩn bị xâm lăng. Một bên dùng bạo lực xâm chiếm lãnh thổ của những nước nhược tiểu để thêm vi cánh mà Việt Nam ta được cái ưu điểm là có nhiều tài nguyên thiên nhiên dưới lòng đất đã làm Trung Quốc thèm chảy nước dãi, sẵn vai vế làm đàn anh cộng sản trong khu vực, có sức mạnh đè đầu thì cứ đè cho nước đàn em nghe lệnh, nếu không thì dùng chiến tranh để giải quyết chiến tranh.
Người có tín ngưỡng Phật Giáo điều phải hành động theo lời Phật dạy là: Đừng bao giờ dùng gươm giáo để trả lời gươm giáo, hãy sống cuộc đời của Phật, Hỷ Xả, Từ Bi. Đức Tôn Sư PGHH lâm phàm dạy đạo, ngày 18 tháng 5 năm Kỷ Mão trước đệ nhị thế chiến, Ngài tiên tri rằng cuộc chiến tranh thế giới sẽ xảy ra từ năm con Mèo và chấm dứt cuộc chiến ác liệt vào năm con Gà như những câu sau đây:
“Mèo kêu bá-tánh lao-xao
Đến chừng Rồng, Rắn máu đào chỉn ghê.
Con Ngựa lại đá con Dê,
Khắp trong trần-hạ nhiều bề gian-lao.
Khỉ kia cũng bị xáo-xào,
Canh khuya Gà gáy máu đào mới ngưng.”
Đã biết trước cuộc chiến tranh từ năm khởi đầu cho đến năm chấm dứt thế sao Đức Thầy không ngăn chận chiến tranh? Phật lâm phàm cứu độ chỉ là dạy chúng sanh tu hành chứ không độ được những quốc gia có tham vọng bá chủ hoàn cầu dùng binh lược tấn công cướp nước gây nên thãm họa sinh linh. Đứng trước tình huống đó Đức Thầy cất tiếng than trong khi viết bài “Thay Lời Tựa” tôi xin trích đoạn kể ra dưới đây:
“… Ta đây tuy không thể đem phép huệ linh mà cứu an tai họa chiến tranh tàn khốc do loài người tà bạo gây nên… hiềm vì cảnh quốc phá, gia vong, máy huyền cơ đã định… vì lòng từ-ái chứa-chan, thương bách tính tới hồi tai họa…”
Thương thì tìm cách cứu chúng sanh thoát khỏi làn tên mũi đạn bằng sức tu niệm của mỗi người:
“Đến chừng đó bốn phương có giặc,
Khắp hoàn cầu thiết thiết that ha,
Vậy sớm mau kiếm chữ Ma Ha,
Thì Phật cứu khỏi nơi khói lửa.”
Và câu:
“Phú có cao đàng phân kẻ bạo
Cho người lương thiện khỏi xông pha.”
Khói lửa binh đao của thời đệ nhị thế chiến, các bên lâm chiến đều sử dụng vũ khí tối tân của một thời, giết chết biết bao địch quân, nhân dân lương thiện, mà so với vũ khí các nước hiện nay thì nó lạc hậu quá xa rồi. Không còn cái thời nhân dân chạy giặc bằng đào lổ trảng xê, né bên mô đất cao hay vào nhà tường đạn bắn không lủn, vũ khí tối tân hiện nay tường to cũng bắn xập, mô đất, lổ trảng xê kiên cố cỡ nào cũng không chịu nổi sức công phạt của đạn pháo vùi xuống nổ lên. Bây giờ chỉ có lòng tin tưởng Phật Trời, phát nguyện cải hối ăn năng làm lành lánh dữ chuyên tâm niệm Phật sẽ được Phật độ:
“Biết khôn tìm kiếm Ma Ha
Một câu lục tự nhà nhà bình an.”
“Vậy sớm mau kiếm chữ Ma Ha

Thì Phật cứu khỏi nơi khói lửa.”
Tu đúng theo lời Phật dạy, trong hành giả có phát sinh công đức, chính công đức ấy che phủ lấy thân, như có thành trì bảo vệ tên đạn không xâm hại. Nếu sự kiện chiến tranh xảy ra do máy huyền cơ đã định, bá tánh như ta dầu không muốn có ai trong thế gian dựng bãi chiến trường, chẳng những là không muốn mà còn phải nỗ lực vận động hòa bình cũng chưa chắc đã nên. Hãy tự lo cho mình không bị binh đao sát hại, đừng nghĩ đến chuyện đào lổ trảng xê trốn mà đào thảy cái tâm ác ra khỏi sự sống, còn ác tâm là còn mang trong lòng chiến tranh, thù hận, đào thảy tâm ác tất nhiên trong cuộc sống không còn mầm mống chiên tranh sẽ không bị người ta dùng chiến tranh để giải quyết chiến tranh, dùng gươm giáo trả lời gươm giáo với mình.

03/2/2018