Thứ Hai, 30 tháng 4, 2018


PHÓNG SANH
Nhớ lại lúc còn trẻ nhỏ, ở quê, tôi có thú vui ra đồng lật đất bắt dế nhủi, dế đá, cá thia thia, dế đá đem về cho nó gáy te te sướng lổ tai rồi thì cáp độ ăn thua với những con dế khác của mình hay của mấy đứa bạn. Có khi tụ tập trong nhà, cải cọ hoặc cười vui lớn tiếng bị cha mẹ la rầy chúng tôi kéo ra đường giác trưa, ngồi dưới bống cây bày ra chiến trận đấu dế. Mới đá có chút con dế của tôi đã thắng, cắn sức râu cụt cánh con dế thằng bạn, chạy phóng ra thau. Đứa bạn tôi tức mình ngắt đầu con dế thua của nó, đút cọng cây bằng cái que tăm, đăm thủng từ cổ đến đầu con dế, dùng hai ngón tay xe xe cọng cây giả làm con dế sống tấn công con dế thắng của tôi. Tôi thấy trò chơi cũng vui mắt để cho nó làm mình coi. Con dế thắng của tôi cắn đá tứ tung mà bên kia đối thủ vẫn nguyên cái sức mạnh tấn công. Bấy giờ có cô bác đi qua đường xem thấy bọn trẻ chúng tôi ngồi chùm nhum cười cợt lớn tiếng, ghé mắt thấy chúng tôi chơi ác, ngắt đầu con dế, quý vị dừng lại khuyên rầy: Đừng làm ác để sau không bị quả báo. Sau đó, khuyên chúng tôi nên phóng sanh, thả hết những con dế còn lại: Các cháu sát sanh hoặc làm khổ sinh vật đều có tội, phóng sanh có phước, Phật Trời Thánh Thần phù hộ sống lâu, sống khõe, chết không bị đày xuống âm ty chịu tội. Quý vị ấy đọc và giải thích lời dạy của Đức Thầy cho chúng tôi nghe:
…“Chẳng những vậy thôi, họ còn giết các thú vật vì sự vui thích của mình; kẻ bắn chim đang bay trên trời, người chặt cá đang lội dưới nước. họ bắt thú vật làm tấm bia cho họ nhắm trong những khi cao hứng, quên hẳn rằng sanh vật cũng có linh hồn, cũng có thân xác, cũng biết tìm lẽ sống còn như nhơn loại vậy”.
Hôm đó chúng tôi thả hết những con dế, nhà đứa nào cũng nuôi cá thia thia, cô bác không hay mà khuyên thôi nhưng chúng tôi sợ tội và muốn có phước cũng đem đi thả chúng xuống chiếc đìa đầy nước sau đồng.
Thật sự, chúng tôi nghe nói về tội đứa nào cũng sợ còn phước thì chưa hiểu ích lợi của phước và phải làm gì để được phước. Mất vui chuyện đá cá, đá dế, bửa sau chúng tôi rủ đá banh, chia nhau vào vườn chuối hái lá chuối khô, tước dây cọng gùi lại bó tròn cho giống trái banh. Đá mồ hôi mồ hám nhảo nhề người thì cô bác bửa trước lại đi ngang nữa, kêu chúng tôi cho bánh kẹo. Chúng tôi chạy lại chỗ quý cô chú lãnh kẹo bánh, đứa ngồi đứa đứng nhai ngốm ngám, có một cô để bàn tay lên vai lưng tôi quét mồ hôi, nói: các cháu chơi đổ mồ hôi như vầy là hao sức lắm, có thể dẫn đến bệnh hoạn khiến cha mẹ lo buồn, hãy theo các chú bác làm phước cho Trời Phật thương. Chúng tôi chưa biết làm phước là làm chuyện gì nhưng đã ăn mấy cái bánh kẹo là thích, đồng ý đi. Các vị dẫn chúng tôi kiếm cây thuốc Nam ngoài đồng, bó vác về chặt phơi khô đem đến nhà thuốc để lương y độ bệnh miễn phí cho bà con. Làm công việc được quý cô chú bác cưng thương lại thêm có bánh kẹo ăn chúng tôi đứa nào cũng thích. Trong lúc làm việc thiện, thỉnh thoảng quý cô chú dạy chúng tôi đạo lý ở đời, với Ông Bà Cha Mẹ có lễ phép, với cô bác xóm diềng phải thật thà dễ dạy, với anh chị và bạn bè, hãy thương mến và đối xử tốt, giữ tính ngay thẳng không tham lam lấy cắp của ai làm của mình…
Từ đó ngày nào hễ đi học về, giác trưa không có việc vì làm tôi hay đi tới chú bác đnghe dạy. Nhờ thế, từ đó dẫn đến sau nầy tôi luôn ghi nhớ không sát sanh hại vật và thay vào đó là phóng sanh. Mỗi năm nước lên đồng, cá, tôm, tép theo nước và sanh trưởng tung tăng bơi lội xa xa, tìm nơi yên ổn làm nhà để ở, chừng hết mùa, nước rút ra sông biển, cá trong đồng ra không kịp, nước cạn kẹt lại trên những vũng nhỏ, nếu không có ai cứu đem đi, một vài ngày sẽ bị chết khô. Khi nào có tính trước bắt cá đem ra sông thả tôi mang theo rổ, thùng thiết, bọc chứa nước, còn tình cờ ra đồng mà gặp dịp thì cổi áo ra làm thùng đựng cá. Đi tìm những vũng lạn, nước trên đồng bị nắng trời sắc cạn kiệt dần, nước chỉ còn một lổ túm húm mà chung quanh thây cá nằm lạn đả, bay mùi hỉnh hỉnh khó chịu, tôi cũng phải xông vào chỗ cái lổ nước túm húm bằng đi trên xác những con cá, tép, phần nhiều là cá sặc, cá lòng tông để cứu những con cá tép đáng thương còn sống dưới sự giãy giụa, lặn ngụp mà nước ao tù chỉ còn khỏa lưng đưa những cọng râu ngút ngắt chờ chết rất là tội nghiệp. Cá lóc, cá rô, các trê người ta gọi là cá đen, loại giỏi chịu đựng cảnh mắc cạn hơn loại cá trắng: tép, cá sặc, cá lòng tong, cá linh… Tôi bắt tép để riêng trong cái bọc có nước, các loại cá cho ở chung một thùng để tránh sự hoạt động mạnh của cá mà có thể sức khõe của tép không chịu nổi, đem ra kênh hay sông thả còn tùy thuộc vào địa điểm bắt thả cá gần kênh, sông hay xa biệt mù để chuẩn bị đồ đựng an toàn. Tôi nhận một bên vách thùng chìm xuống cho nước mát trộn vào, cá như được tiếp thêm sức mạnh chạy tháo ra, nhìn chúng bơi lội tự do tôi cảm thấy rất là sung sướng, không hay mình cực nhọc, mình mẩy quến sình.
Vì sung sướng đã khiến tôi không biết mệt, mà đầu óc tôi như được nhắc chừng những con cá đang bị mắc cạn trên đồng cần sự cứu sống nhanh. Ngày nào như ngày nào, nhiều chuyến ra đồng tìm vũng nước cạn bắt cá đem thả.
Hồi ấy xứ tôi bà con nhiều hộ trồng mía, lựa đất cao mùa nước không ngập trồng mía hom, đất thấp thì trồng mía mùa. Mía mùa trồng sau khi nước giựt khô đất người ta cày bừa mấy bận cho bung đất nhuyễn khá bột lên thì mới giăn dây kéo hàng xuống giống cho đến mưa già nước lên mùa tràn đồng thì mới thu hoạch, để đất cho phù sa chứa dựa; mía hom tức mía làm giống chờ trời sa mưa xuống người ta mới trồng chừng thu hoạch đúng thời vụ trồng mía mùa. Thời gian kéo dài như vậy, để tránh gió mưa làm đổ ngả, người ta phải cho kéo máng gió, máng dện hai lần, đấp giữ hàng mía đứng thẳng thành mỗi luốn mía có đường mương sâu ngáy. Mùa nước dâng lên ngập lút giồng mía mô cao, cá tép theo nước lên đồng tìm chỗ im ở sanh con đ cái, chừng nước rút, cá lớn mạnh mẽ quất đuôi lội ngược ra ngoài kênh, sông, bầy con cháu của chúng non nớt chưa biết tìm cách bảo vệ sự sống còn, không vượt ra, mắc cạn ở lại trong những đường mương kéo máng mía. Nước sắt dần, những cá tép phải chịu ló đầu bài lưng chờ chết, có những đường mương dài hốt bắt cả một thùng thiết chưa chắc hết. Phóng sanh hồi nầy hoàn toàn là công lao và những con cá tép được cứu không có ai làm chủ để nói lên sự mua bán.
Ngày nay, người làm việc phóng sanh sang hơn, không nghe ai nói vào đồng bắt cá hoang, phóng sanh những con cá bị kẹt sắp chết khô. Họ xuất tiền ra mua, làm giàu cho các ông bà chủ kinh doanh bằng nghề nuôi cá. Những nhà có ăn có mặc, rủ nhau hùng tiền mua thả cá, trong nhóm, một ít người vì muốn được danh thơm tiếng tốt với đời chạy theo phong trào thả cá phóng sanh mà ngay bản thân họ lại không chịu phóng sanh với những thịt thà dùng hằng ngày.
Phóng sanh chim cá, cứu mạng cho chúng khỏi chết là điều tốt, nên khuyến khích, nhưng tôi muốn chúng ta nên nghiên cứu lại việc mua cá của những người kinh doanh bằng nghề nuôi cá, biết đâu, nhắm vào chỗ tiêu thụ dễ dàng họ sẽ lên huy hoạch, mở rộng nghề nuôi cá hơn nữa… rút tiền trong túi của ta mà số tiền ấy Đức Thầy dạy “Giúp cho những người lỡ đường đói rách, tàn tật”, hoặc như những câu sau đây:
“Khùng cả tiếng kêu dân ơi hỡi,
Hãy giúp cho kẻ khó mới nhằm.
Đến loạn ly khổ hạnh khỏi lâm,
Còn hơn đúc chuông đồng Phật bự”
Ước mong rằng, những người mua chim cá phóng sanh cầu phước cho mình hay cho ông bà cha mẹ, vợ chồng, hãy nên làm việc phóng sanh ngay chính bản thân mình qua sự ăn uống trước đã. Chúng ta tu ở hàng tại gia, đòi cho tịnh tâm trong khi thực hành đạo sự rất là khó, tịnh thân là việc bên ngoài, nắm bắt được, thì ta phải rán thực hiện ba điều căn bản bởi nghiệp của thân: Không sát sanh, đạo tặc, tà dâm. Việc ta phóng sanh có liên quan đến ác sát sanh của thân nghiệp, tịnh thân không sát, đạo, dâm thì sự phóng sanh mới đạt hiệu quả cao.
01/5/2018

Thứ Tư, 25 tháng 4, 2018


ĐI CÚNG CHÙA VÁI THẾ NÀO?
Nhớ lần nọ đi cúng chùa Thới Sơn vào mùa nắng hạ, khí Trời oi bức, nguyện vái xong tôi trở ra trước sân dưới tàng cây bóng mát, nhà chùa có đặt nhiều băng ngồi bên những cội cây, tôi vừa ngồi xuống thì thấy hai người phụ nữ đi lại hướng tôi với vẻ khép nép, một cô nói:
- Thưa chú, đi chùa bái Phật, nguyện thế nào mới đúng nhờ chú dạy?
Thấy băng ngồi đằng kia xa quá, nếu hai cô qua ngồi bên đó tôi e mình trả lời rát cổ chưa chắc hai vị đã nghe, phần thính giác của tôi giờ cũng kém cỏi nhiều, còn để quý cô đứng hoặc ngồi chòm hỏm nghe tôi giải thích thì cũng rất là tội nghiệp. Tôi ngồi sát lại một góc, tróng chỗ cho hai cô ngồi. Một cô nói có vẻ như để trấn an tôi:
- Con kêu ông bằng chú là thói quen của con chứ tính ra phải kêu bằng bác mới đúng, vì chú lớn hơn cha con tới bảy tuổi.
- Sao rành tuổi chú quá vậy?
- Tuy mới gặp và nói chuyện với chú nhưng con được mấy anh chị nói con nghe nhiều về chú.
Sắp sếp xong chỗ ngồi và cách xưng hô thân mật tôi đáp:
- Nói dạy thì tôi không dám vì câu hỏi của cháu rất khó trả lời.
- Thật vậy sao chú?
- Mỗi người mỗi mang tâm trạng khác nhau, giống như món ăn tôi thích chưa chắc hai cháu đã thích. Nguyện tức là cầu xin các đấng từ bi gia hộ nguyện ước của mình, đâu chắc rằng ước nguyện của hai cô và tôi có điểm giống nhau, nên đúng chỉ là đúng với riêng mình. Ví dụ tôi nguyện “Mãn kiếp hồng trần sanh Lạc Quốc”, nguyện bỏ hết các duyên sự đời để nhiếp tâm Niệm danh hiệu Đức Phật Di Đà cầu vãng sanh Tịnh Độ là hợp hay không hợp với hai cô? Có người quỳ trước bàn thờ Phật nguyện cải hối ăn năng làm lành lánh dữ, cầu Phật cho thêm sức mạnh tinh thần, ý chí kiên cường vượt qua chướng ngại rồi tự tin mình đã làm lành, thêm sức mạnh tinh thần, vượt qua chướng ngại; tới chừng đụng chuyện mới biết mình chưa lành, sức mạnh tinh thần không có và chướng ngại không thể vượt qua. Trong lúc nguyện ăn năn mà lành không chịu làm, dữ không chịu lánh; nếu câu “Nguyện cải hối ăn năng làm lành lánh dữ” chỉ ở đầu môi chót lưỡi thì việc tu hành, đi chùa bái Phật sẽ không có kết quả tốt.
Lại có người quỳ trước  bàn thờ Phật cầu cho mua may bán đắt, làm ăn khá giả, tình duyên đôi lứa nồng ấm. Có người quỳ trước bàn thờ Phật nguyện Phật độ bệnh nhân là thân nhân của mình được bệnh tật tiêu trừ, tai qua nạn khỏi… Người ta nghĩ Đức Phật là đấng tam toàn: Toàn thiện, toàn giác, toàn năng:
“Thiên thượng thiên hạ vô như Phật
Thập phương thế giái diệc vô tỷ.
Thế gian sở hữu ngã tân kiến,
Nhứt thiết vô hữu như Phật giả”
Đức Thầy dịch:
Trên dưới Trời chẳng ai bằng Phật,
Khắp mười phương hẳn thật khó so.
Dòm xem cõi thế rộng to,
Một người khó kiếm sánh đo cùng Ngài.”
Với khả năng tuyệt đỉnh đó Ngài giúp gì cho ai cũng được nên chúng sanh tâm tính không đồng cứ theo yêu cầu của mình mà khẩn vái sự linh thiêng đến.
- Thưa chú, người ta khấn nguyện như vậy có kết quả không?
Nếu khấn nguyện không mang đến kết quả thì Đức Phật Đức Thầy không dạy. Theo tôi, kết quả hay không còn tùy thuộc ở điều nguyện của mình khấn vái có đi đôi với hành động không. Nguyện hoặc nói cao thêu lêu mà hành động quá thấp, đến đổi những hành trì căn bản của một tín đồ đôi khi bị những chuyện không đâu làm rối tung, quên lảng, bỏ cử. Đức Phật muốn chúng sanh cải hối ăn năng làm lành lánh dữ, vượt bờ mê sang bến giác khi mãn kiếp hồng trần không còn ai vào ra trong sanh tử luân hồi. Ta nguyện như vậy và đem thực hành, lý sự hợp nhất, tuy còn ở cõi mê mà không đắm mê, người ta làm ác mình làm thiện thì từ đây sống tỉnh chứ không sống say, sống thiện không sống ác, tất nhiên vòng quay luân hồi không còn tác dụng cuống húc đến ta. Đức Thầy dạy:
“Xa nơi tranh đấu lợi danh
Giữ lòng thanh-tịnh tánh lành trau tria.
Gắng công trì niệm sớm khuya,
Thân tuy còn tục tâm lìa cõi mê.”Những ai nguyện mua may bán đắt, làm ăn khá giả, duyên tình nồng ấm đối với bàn thờ Phật, tôi không nói là nguyện sai (bởi mỗi người đều có tự do tín ngưỡng của mình) mà là nguyện không đúng chỗ.
- Vậy theo chú, những người mang tâm trạng mong làm giàu sang phú quý, hôn nhơn bền chặc nguyện ở đâu mới đúng chỗ?
- Đừng nói tôi vẽ đường cho hưu chạy nha! Hãy đến bàn thờ Thần tài, Thần tình (nếu có) nguyện mới đúng. Nhưng nên nhớ, Đức Phật có lịch sử đàng hoàn còn Thần Tài hay Thần Tình (ông tơ bà nguyệt) do người ta giàu tưởng tượng vẽ ra. Muốn giàu sang nên kiếm việc làm và tích cực làm việc, điều nên tránh là đừng đốt thời gian vào cờ bạc, uống rượu, lăn nhăn chơi bời đàng điếm. Muốn hôn nhơn đi đến một kết cuộc tốt, hai bên nên đem lòng dạ của mình thương yêu chung thủy, biết nhường nhịn, tha thứ, biết quan tâm và chia sẻ những lúc bệnh hoạn, đau buồn ấm ức. Hai bên đều tìm thấy một chỗ dựa của nhau thì trong họ không ai nảy sinh tìm chỗ dựa đâu nữa, họ dựa với nhau đi suốt đoạn đường tình.
Thưa trong chùa có nhiều ngôi thờ, mỗi ngôi nguyện giống hay khác nhau?
Nếu nguyện giống nhau thì một ngôi thờ thôi là đủ đâu cần phải lập nhiều ngôi. Lập nhiều ngôi thờ và mỗi ngôi hình thức khác nhau thì nguyện cũng phải khác nhau. Những chùa thuộc đạo Bửu Sơn Kỳ Hương và Phật Giáo Hòa Hảo ngoài ngôi thờ Phật (Tam Bảo) có những ngôi thờ như: Đức Phật Thầy Tây An, hoặc Quan Thượng Đẳng Đại Thần Nguyễn Trung Trực, Đức Cố Quản Trần Văn Thành. Các vì trên trước mỗi vị có công hạnh khác nhau, như Đức Quán Thế Âm Bồ Tát, công hạnh của Ngài là tầm thanh cứu khổ, Ngài có thiên thủ thiên nhản (ngàn tai ngàn mắt) để nghe rõ thấy rõ những chúng sanh bất cứ nơi đâu, nếu đang gặp phải tai nạn mà niệm danh hiệu của Ngài Nam Mô Đại Từ Đại Bi cứu khổ cứu nạn Quan Thế Âm Bồ Tát, do công hạnh tầm thanh cứu khổ nên nghe bất cứ nơi đâu trong chốn hồng trần, người gặp khổ mà nguyện danh hiệu của Ngài thì Ngài sẽ dùng thần thông đến cứu. Công Hạnh của Quan Thượng Đại Thần Nguyễn Trung Trực, Đức Cố Quản Trần Văn Thành là hai vị công thần xả thân vì nước, chánh nhơn quân tử, quyết bảo vệ giang sơn của tổ tiên, giữ an ninh trong dân chúng. Bấy giờ nước nhà không có giặc ngoại xâm, máu tươi không còn đổ ở chiến trường là điều ai cũng muốn, những vị công thần chánh nhơn quân tử xả thân vì nước là hướng đến sự tự do cho nước cho dân, chiến trường không đổ máu nhưng nhân dân sống mất tự do sẽ là nỗi ám ảnh lớn trong cuộc sống con người. Bởi công hạnh đó, ta nguyện các Ngài hiển linh dùng oai lực đại Thần cứu nước cứu dân thoát khỏi sự cai trị bởi bạo lực độc tài.
Tóm lại, ở chùa có nhiều ngôi thờ, mỗi ngôi thờ đều có giá trị riêng về mặt thiêng liêng, thiện nam tín nữ đến kính bái ngôi thờ nào thì phải biết ngôi thờ ấy thờ vị trên trước nào nguyện cho hợp lý, phải lẽ, như người tín đồ PGHH không thể có chuyện cầu cúng ngôi Cửu Huyền Thất Tổ mà đọc bài Quy Y trước bàn thờ Phật, Tây Phương Ngũ Nguyện, trái lại cũng không thể cầu cúng ngôi Tam Bảo lại đọc bài cúng Cửu Huyền Thất Tổ.
26/4/2018

Chủ Nhật, 22 tháng 4, 2018


TU NHƯ THUYỀN THẢ TRÔI
“Tu hành như thể thả trôi
Nay lở mai bồi chẳng có thiêng tâm”
(Lời Đức Thầy)
Trong Sám Giảng quyển nhứt KHUYÊN NGƯỜI ĐỜI TU NIỆM Đức Thầy viết tại làng Hòa Hảo bằng thể thơ lục bát dài 912 câu, trong đó có hai câu khiến chúng ta nên đặc biệt quan tâm để phản tỉnh hằng ngày sự tinh tấn của mình “Tu hành như thể thả trôi, nay lở mai bồi chẳng có thiềng tâm”. Những từ như “thả trôi, lở bồi” rất là nhạy cảm và vương vấn thêm lâu khi đọc nó ta thấy có sự cười cợt, mỉa mai kẻ đi thuyền mất tự chủ, nói lên ý nghĩa gì trong việc dạy khuyên nhân thế quay đầu hướng thiện?
Tu hành: Ta hiểu chữ tu có nghĩa là trau sửa, với bản thân không để hư hèn và tội lỗi, với người khác thì tha thứ, yêu thương, với nghịch cảnh thì cứng rắn vượt qua để hoàn thiện đạo đức chính mình. Hành: là một chứng minh cụ thể qua hạnh cách, đảm bảo tu gắn liền với sửa là sự thật chứ không phải ở đầu môi chót lưỡi, “tìm đạo quá mồm”, kiểu cách khoe khoan. Đức Thầy dạy “Bởi chữ tu liền với chữ hành”. Tu không hành, chỉ làm dáng vẻ người có đạo mà các công tác đạo sự, thiện sự của đạo hay của chính bản thân không được đánh thức.
Như thể: lời ví dụ, ví như, giống như .
Thả trôi: là nói một hiện vật nào đó xuất hiện trên dòng nước. chúng ta hình dung con sông, dòng nước có khi ròng khi lớn, chiếc thuyền không có người chèo bơi, nước lớn chảy vô thuyền theo dòng nước chảy vô, đến lúc nước ròng chảy ra thuyền cũng theo đó mà trở ra. Thuyền là cái phương tiện cho người ta đi lại trên đường thủy, nhưng phương tiện ấy không chủ động việc đi lại theo ý muốn mà luôn luôn bị động bởi con nước lớn ròng. Rốt cuộc người chủ thuyền có mục tiêu phải đến mà đi hoài vẫn không đến mục tiêu.
Nay lở mai bồi: Đất chỉ một lần lở, bồi lại thì thôi đừng để cho lở nữa, chỗ lở đã được bồi bằng thì cố mà giữ lấy mặt bằng, đừng để có sự bồi bằng lần thứ hai, nếu bồi đấp bằng rồi mà mình còn cho lở nữa, cứ lở bồi, bồi lở mãi, suốt kiếp không an cư.
Thiềng tâm: Lòng thành. “Chẳng có thiềng tâm” tức chẳng có lòng thành với việc tu hành của mình.
Nhà Phật dạy: tu có nghĩa là sửa, vì ta đang rớt về chỗ mê không tự sửa mình, phải nhờ tiếng kêu nhắc nhở của Kinh Giảng hoặc thiện tri thức nào đó mới chợt tỉnh nhận ra. Mê ít, kêu nhắc qua một hai lần là thoát mê, ngay từ đó đi trên con đường sáng quyết không lùi bước. Mê nhiều, tuy được nhắc nhở một hai lần, làm gượng tỉnh chút chút chứ chưa tỉnh hẳng như chiếc xe chỉ bớt ga mà cái trớn xe lăn vẫn còn giục tới, cần có sự nhắc nhở hoài hoài đến chừng nào chiếc xe không những là bớt ga mà còn tắt máy nữa, cường độ của lòng dục vọng mê si sứt ra hoàn toàn mới xong chuyện.
Thế là đường tu chỉ một mực tiến không được lùi, tự chủ chứ không để vật chất hay ai đó làm chủ. Nếu ta để mất quyền làm chủ về vật chất, tình cảm, quyền lực… những thứ nhạy cảm đó có thể khiến ta trở thành tên nô lệ, vất vả đến chết được mà không hay mình bị kìm hãm mất tự do. Tu cái kiểu như thuyền thả trôi trên dòng nước, nước lớn chảy vô thuyền theo đó mà vô, nước ròng chảy ra thuyền khuất phục theo ra, quanh quẩn hết kiếp thuyền rả người cũng rả trên biển khổ sông mê chẳng được gì.
Nhớ lúc xưa tôi mua đất cất nhà ở kinh xáng Cà Mau, mỗi sáng chiều tôi hay xuống bến kinh xách nước tưới rau rẩy ăn hàng ngày, hôm nọ tôi thấy dưới sông có chiếc gối nằm cũ bẩn người ta vứt bỏ xuống nước, xách nước cử sáng tôi thấy chiếc gối ở ngoài trôi vô, tưới tăn chưa xong chiếc gối ấy trôi húc tầm mắt, tưởng là không gặp cái thứ dơ ẹ đó nữa, không ngờ xách tưới cử chiều tôi thấy nó trôi trở ra, và cứ như vậy mỗi ngày tôi đều thấy cái thứ không muốn thấy trên kênh nước trong veo. Nhiều ngày như vậy chiếc gối no nước khẳm thêm nó không nổi cao mà là đà trên mặt nước, hôm nọ tôi thấy chiếc gối ấy rách lòi bông gòn tè le, là lúc bệnh nặng rả xác.
Con người chúng ta không biết bao nhiêu lần rả xác trên chốn sông mê mà nay cũng còn thả thuyền trên sông mê chờ rả xác nữa sao?
“Nợ duyên đeo đắm theo đời tạm,
Kiếp số luân chìm chốn gốc gai.
Rày gặp mưa nhuần ơn Thánh Đức,
Cam Lồ rưới tắt lửa trần ai.”
Hãy dùng Thiền Tịnh tưới tắt lửa trần ai của đời mình, đã phát tâm tu là bắt đầu sự hiến thân cho Phật Pháp, từ đây sanh ra sự tranh chấp giữa đạo và đời, có thể nhiều kiếp qua ta đã khoác áo nhà tu nhưng sự tranh chấp giữa chơn và vọng, phiền não Bồ Đề, sanh tử và Niết Bàn luôn tồn tại, thua hoặc trong tình trạng gay cấn, ta muốn giải quyết sự tranh chấp bằng kết cuộc Chơn, Bồ Đề, Niết Bàn là một với ta. Điều nầy phải đặt vào ta có thành tâm chưa. Nếu không chuẩn bị chu đáo sự thành tâm đi cùng, đường còn dài, đụng một chút chuyện khó hoặc quyến rủ của danh, lợi, tình làm ta thối chí là thua.
23/4/2018