(IV) “ĐỨC
PHẬT THẦY TÂY AN VÀ VUA QUANG TRUNG NGUYỄN HUỆ” (phần tiếp theo)
11.
PHẬT THẦY LẬP ĐẠO ĐỂ MƯU VỆ TỬ TÔN:
Cư sĩ
Sripolieu:
“Gian nan dấu tỏ để bày
Nam mô Bồ Tát đạo Thầy
di ngôn.
Đạo Thầy mưu vệ tử tôn,
Biết nghe lời Phật sống
khôn thác càng.
(tập 1 trang 37)
Nội
dung hàm ý đạo Phật Thầy Tây An là đạo phu thê để sanh con đẻ cháu nối dõi tông
đường, cùng hàm ẩn Tây An là người con trai thuộc dòng dõi Hoàng Đế. Ngài như
con chim không còn nhành đậu, như người mất giang san, đành phải mượn áo tu sĩ
mà dạy đạo quốc vương thủy thổ để mưu vệ tử tôn của dòng dõi mình” (tập 1 trang
78)
Theo cư
sĩ Sripolieu Đức Phật Thầy gặp phải trường hợp bất đắc dĩ nên mới mượn áo tu sĩ
dạy đạo Bửu Sơn Kỳ Hương để bảo vệ cho con cháu dòng dõi của Ngài khỏi bị diệt
vong do nhà Nguyễn truy nã.
Cư sĩ
Sripolieu đưa lý tưởng từ bi cao thượng của Đức Phật Thầy vào nước bí của một
thế cờ đen tối trên lịch sử! Bởi lẽ:
Xưa nay
các vị nguyên thủ quốc gia để bảo vệ chung cho cả đồng bào dân tộc. Các vị giáo
chủ lập đạo để tế độ chung cho vạn vật sanh linh, đó là chánh nghĩa, chánh đạo,
trái lại là mị dân, tà giáo. Cư sĩ cho rằng Phật Thầy mượn áo tu sĩ dạy đạo để
bảo vệ dòng dõi con cháu của Ngài! Có phải cư sĩ đánh giá Phật Thầy là hạng mị
dân, tà giáo chăng?
Lại
nữa, nếu nói Phật Thầy dạy đạo với dụng ý bảo vệ con cháu của Ngài. Thử hỏi con
cháu của Ngài là ai? Vào khoảng năm 1945 địa vị nhà Nguyễn đã bị lung lay,
nhiều nơi sống ngoài vòng kiểm soát của nhà Nguyễn, nhất là miền Bắc không còn
bị nhà Nguyễn nắm chủ quyền. Đến năm 1954 Pháp ký hiệp định giơ neo rút quân về
nước, nhà Nguyễn hoàn toàn sụp đổ. Rồi tính ra đến nay (1998) non nữa thế kỷ
rồi, sao con cháu của Phật Thầy vẫn bặt vô âm tín? Và cũng không thấy sử sách
nào nói đến? Rất đỗi loài thảo mộc vô tri, như cỏ cú bị tảng đá nặng đè, khi
giở tảng đá còn mọc lên. Hà huống chi loài người? nhất là hạng quý nhân tài trí
đã qua hồi tai nạn lại chẳng biết cất cánh bay cao tìm về tổ cũ hay sao? Nếu
chỉ ông Đoàn văn Điểu và Đoàn Văn Viên thì không hợp lý. Vì khi Phật Thầy khai
lý lịch tại đình thần làng Tòng Sơn thì hai vị nầy đã hợp lệ trước chánh quyền
địa phương của nhà Nguyễn rồi! cần chi phải dạy đạo để mưu vệ tử tôn, tức vì
chuyện cá nhân không phải chánh đạo thì danh thể và tông phái Bửu Sơn Kỳ Hương
của Ngài đã bị định luật tự nhiên của thời đại đào thải lâu rồi, đâu còn tồn
tại sáng tỏa đến hôm nay!
Chúng
ta lắng nghe học giả Lê Văn Siêu nói về Đức Phật Thầy trong một tờ Nguyệt San
năm 1966:
“Một
đồng bằng phì nhiêu có dân cư trù mật như miền Hậu Giang. Nếu không nhờ có giáo
lý “Học Phật Tu Nhân” của Đức Phật Thầy hóa độ, tức sẽ biến đám dân tứ chiếng
quần cư này thành một nơi điếm đàng trụy lạc bởi cái sức trù phú và sung mãn
của nó”. Và chúng ta hãy tìm hiểu thêm về thơ văn của Đức Phật Thầy:
“Riêng chiếm non bồng
một cảnh tiên
Tu trì phép đạo khác
màu thiền
Nước kinh rửa sạch lòng
trần tục
Phù Phật dành dưng kẻ
thiện duyên
Sáu ngã quỷ tăng nhiều
chỉ bảo
Ba đường tội phước khắp
răn truyền
Từ bi đã có lòng siêu
độ
Biển khổ sông mê thấy những phiền
***
Đức sánh trùm che bậc thánh
hiền
Đạo mầu nghĩa nhiệm tấm
lòng chuyên
Lánh nơi thiềng thị
tình đời trải
Gặp lúc thái bình giấc
ngủ yên
Lăng líu tiếng chim kêu
náo nức
Rõ ràng hoa nội trổ
tiên thiên
Trân trân danh lợi cười
ai mến
Riêng chiếm non bồng
một cảnh tiên.”
(Thập Thủ Liên Hoàn)
Và:
“Màu thiền đắc ý Cũng
màu
Còn hơn chen chúc công
hầu vương khanh”
(Giác Mê)
Văn thơ
là để giãi bày tâm trạng của tác giả. Đọc kỷ vần thơ trên, chúng ta thấy tâm
trạng Phật Thầy là bậc ung dung tự tại giải thoát, chớ không phải tâm trạng một
người đang sống trong hoàn cảnh đau thương vong quốc. Thế nên, nếu kết luận
Phật Thầy là con của vua Quang Trung là sai !
Về bốn
câu thơ của ông Ba nói trong Kim Cổ Kỳ Quan:
“Gian nan dấu tỏ để bày
Nam mô Bồ Tát đạo Thầy
di ngôn
Đạo thầy mưu vệ tử tôn
Biết nghe lời dạy sống khôn thác càng”
Đại ý
ông Ba nói:
Mô
Phật, xin bày tỏ nguyên nhân gian nan của đạo Thầy cho bá tánh được biết: Bởi
đạo Thầy là đạo của dân tộc, đặt nặng Tứ Ân. Nên khi tổ quốc bị ngoại xâm giày
xéo, ngoài cương vị tín đồ nhà Phật còn có trách nhiệm công dân phải bảo vệ nền
độc lập quốc gia, mưu cầu cuộc sống cho con Hồng cháu Lạc khỏi ách nô lệ của
ngoại bang. Đây là phương hướng đạo thầy đã vạch. Người tín đồ lúc sống phải
khôn ngoan, làm dân quan đất Việt, quyết không làm người dân bị trị; khi thác
nguyện làm quỷ thần nước Việt và càng linh thiêng hơn nữa!
Tử tôn
là con cháu, con cháu ở đây có ý nghĩa rộng lớn là chỉ cho nòi giống Tiên Rồng,
con Hồng cháu Lạc chớ nào phải chỉ riêng cho con cháu trong một tộc gia đình!
Hơn nữa, bậc lãnh đạo tinh thần chung cho hàng vạn người lại đặt nặng riêng con
cháu mình, ai kính trọng cho? Sao cư sĩ Sripolieu lại nghĩ chi chuyện cạn hẹp
như thế?
Dựa vào những điểm chính yếu nói
trên, chúng ta có thể nói: lập luận của cư sĩ Sripolieu cho rằng Đức Phật Thầy
mượn áo tu sĩ dạy đạo quốc vương thủy thổ vì mưu lợi cá nhân của Ngài, lập luận
đó không đúng với tư tưởng từ bi của Phật Thầy và là điều vu khống, bôi nhọ
thanh danh một vị hoạt Phật. luận lý này đứng trước đòn cân công lí của tòa án
quốc gia và ánh sáng Phật giáo phải bị bác bỏ.
12.CƯ SĨ SRIPOLIEU NHẬN
LẦM HAI CÂU LIỄN NƠI BÀN THỜ QUAN PHỦ BỈNH:
Cư sĩ
viết:
“Bên
cạnh bàn thờ Cửu Huyền, có một bàn thờ nhỏ, trên vách có treo một cái khung
kiếng, trong là một tờ hồng đơn viết bằng chữ Hán. Ta đọc từ phải sang trái, từ
trên xuống dưới, khung giấy được ghi như sau:
ĐƯỜNG LÊ
HOÀNG
(Trái)
(Phải)
LÊ LÊ HOÀNG HOÀNG PHỦ ĐƯỜNG
CHI PHỦ PHỦ PHÚC
PHÁI HUỆ
KHẢI VỊ CHI DO
HẬU ÂN NHÂN TRẠCH
|
Tạm
giải thích:
HOÀNG
LÊ ĐƯỜNG: tổ đường hai họ Hoàng và Lê.
HOÀNG
PHỦ CHI VỊ: bàn thờ ông bà thuộc Lê phủ (tập 1, trang 176, 177)
HOÀNG
ĐƯỜNG PHÚC HUỆ DO ÂN TRẠCH: Phúc và Huệ của họ Hoàng do ân trạch tổ tiên dung
tưới (do người trước gom nhóm).
LÊ PHỦ CHI PHÁI KHẢI
HẬU NHÂN: Phái họ Lê giải bày cho hậu nhân được biết.
Hiểu
theo nghĩa đen, nơi đây là tổ đường của hai họ Hoàng Lê. Chúng ta nên nhớ Phật
Thầy Tây An tên là ĐOÀN MINH HUYÊN, thì chi phái họ Đoàn, phải thờ Đoàn Phủ Chi
Vị mới đúng.
Còn mẹ
của Phật Thầy là họ Lê, tín Đồ Bửu Sơn Kỳ Hương ai cũng rõ điều này.
Chùa
của mẹ, sao Phật Thầy lại không thờ họ Đoàn mà lại thờ họ Hoàng? Nếu tin ý
chúng ta sẽ thấy điểm mâu thuẫn này. Sự thật, Phật Thầy hay mẹ Phật Thầy đã
mượn hai họ Hoàng và Lê để đánh lừa quan chức triều Nguyễn. Ta nên hiểu rộng
hơn, đó là nơi thờ họ LÊ thuộc Hoàng tộc tức HOÀNG LÊ (như HOÀNG LÊ NHẤT THỐNG CHÍ). Ta chú ý chữ Chư và
Vị kết hợp lại họ Hoàng và Lê tức ám chỉ cho họ Hoàng (trang 178)
Câu bên
phải:
“HOÀNG
ĐƯỜNG PHÚC HUỆ DO ÂN TRẠCH” phải hiểu là. Phúc (Hồ Phi Phúc cha của Nguyễn
Huệ). Nguyễn Huệ thuộc Hoàng tộc vẫn còn được Chúa Tiên (Bà Ngọc Hân) thờ
phượng.
Câu bên
trái:
“LÊ PHỦ
CHI PHÁI KHẢI HẬU NHÂN” phải hiểu: Đây là chi phái của họ Hoàng Lê quí tộc giải
bày cho người đười sau biết rõ.
Đó là
dấu tích bí mật được giải bài khéo léo cho chúng ta biết được Mẹ Phật Thầy
chính là Chúa Tiên dòng Hoàng Lê đã thờ phụng vua Quang Trung nơi đây…” (trích
quyển Phật Thầy Tây An của cư sĩ Sripolieu, tập 1, trang 178)
Chúng
tôi xin đính chánh và tường thuật lại nguồn gốc bàn thờ và hai câu liễn này:
Mùa
xuân năm 1972 nhận thấy tường rào xung quanh ngôi mộ Phật Mẫu bị hư sụp nên Ban
Quản Tự Mộ Bà(1) mới tổ chức tu sửa lại cho chắc đẹp hơn. Thời gian ấy, trong
thân nhân ông quan phủ Bỉnh(2) xin cúng hiến cho chùa một số đất ruộng (trên
một mẫu, tại vàm Cái Nai), và xin gởi bàn thờ quan phủ vào trong chùa. Hai câu
liễn ấy cũng do thân nhân ông quan phủ ghi chép về họ Hoàng và họ Lê là hai họ
của ông và bà phủ Bỉnh. Được vài năm sau, cháu ông phủ Bỉnh là ông Lê Văn Ấn
xin phần đất đó lại để bán cho tá canh(3). Ban Quản Tự sẵng sàng hoàn trả số
đất ấy lại.
Chính
vì lý do đó, hôm nay cư sĩ Sripolieu nhận lầm hai câu liễn trên bàn thờ ông phủ
Bỉnh và bàn giải về việc tộc họ Phật Thầy là họ Lê, họ Hoàng và bà Chúa Tiên,
vua Quang Trung v.v…
Thật ra
hai câu liễn này chỉ có ý nghĩa trong phạm vi ông bà phủ Bỉnh, chớ không có liên
quan gì đến tộc họ Phật Thầy và Phật Mẫu chi cả. nếu năm 1972 không có việc
hiến đất, không có ai đem bàn thờ ông phủ Bỉnh và hai câu liễn vào chùa Mộ Bà
để thờ thì cư sĩ Sripolieu lấy gì mà ghi chép, bàn giải về tộc họ Phật Thầy và Bà
Ngọc Hân công chúa?
Chúng
tôi rất tiếc, cư sĩ Sripolieu đã tìm đến Mộ Bà ghi chép tài liệu, sao không
quan tâm nhận xét kỹ vị trí bàn thờ có đôi liễn này vẫn đặt sau hậu đường, bên
cạnh bàn thờ Cửu Huyền và bàn thờ những vị trụ trì. Vị trí ấy kém phần tôn kính
hơn các bàn thờ trong phạm vi chùa. Xem đó, chúng ta thử nghĩ: luật đạo có cho
phép nhà chùa sắp xếp nghi thức thờ phượng những vị tôn kính có liên quan đến
Đức Phật Thầy, nhất là thân mẫu của Ngài nơi vị trí thấp kém như thế chăng?
Vả lại,
thân mẫu Đức Phật Thầy là một bậc có hàng vạn tín đồ, trong đó biết bao người
am tường nghi lễ, thâm sâu Nho giáo, uyên bác Phật học và khoa học đều cúi đầu
lễ bái. Nếu nhà chùa đặt bàn thờ Phật Mẫu nơi vị trí kém phần tôn kính hơn các
bàn thờ trong chùa thì phải bị tất cả mọi người phản đối lâu rồi! Nếu họ không
phản đối, tức cái bàn thờ có đôi liễn kia họ đã xem thường. Đã xem thường thì
đâu có phải bàn thờ Phật Mẫu như cư sĩ Sripolieu đã dày công dàn dựng.
Chúng
tôi xin nói thẳng rằng: cư sĩ Sripolieu lấy chứng tích hai câu liễn nơi bàn thờ
quan phủ Bỉnh để đóng góp tài liệu lịch sử Đức Phật Thầy là điều sai lầm đáng
tiếc. Lương tâm nhà cầm bút không thể cho phép chúng ta hời hợt, đem chuyện phi
lý lập thành tiểu sử một vị giáo tổ Bửu Sơn Kỳ Hương và xây đắp nền văn hóa cho
tổ quốc mà các anh hùng liệt sĩ đã phải đổ xương máu quá nhiều trong công cuộc
bảo vệ dãy đất hình chữ S thân yêu này!
Và xin
đề nghị thêm với cư sĩ Sripolieu, nên tự xét lại trình độ nghiên cứu của mình.
Chỉ có mấy câu liễn và bàn thờ ông quan phủ Bỉnh là chuyện thực tế, dễ hiểu,
gần đây (1972) cư sĩ còn nhận xét sai lầm, chưa tìm ra mối manh sự thật thì
những gì xa hơn, ẩn trắc hơn về Bửu Sơn Kỳ Hương làm sao cư sĩ thấy biết đúng được?
Chú Thích:
(1)
Ban quản tự lúc đó gồm
có quý ông: Đặng Văn Vận, Đặng Văn Chính, Huỳnh Văn Đấu, Nguyễn Văn Chìa, Võ
Văn Chuẩn và Võ Văn Đon.
(2)
Quan phủ Lê Văn Bỉnh,
gốc người ở Cái Tàu Thượng (An Giang), làm quan phủ cho thời Pháp thuộc.
(3)
Tá canh: đó là hai ông
Lê Văn Lòng, Võ Văn Thứ (ở tại vàm Cái Nai, Hội An, An Giang)
Bình Nguyên
(Còn
tiếp)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét