Thứ Tư, 24 tháng 10, 2018


VÙNG ĐỊA LINH

Tiếp chuyện với chú tài xế xe 16 ghế khiến lòng tôi không khỏi rộn ràng cho chuyến đi nầy, rộn ràng vì phù hợp mong ước của chúng tôi. Chú nói không biết vì sao, những năm, tháng, gần đây, bà con lại thích thuê xe đi viếng bốn Ông Thẻ hơn đi núi đi chùa. Câu nói nầy làm tôi chợt nhớ ra, mình có vài người quen ở xã Vĩnh Hanh, gần Ông Thẻ số 1 nói rằng: Ngày nào ở Dinh Ông Thẻ nầy cũng có ít nhất hằng chục chiếc xe 16 hoặc 7 chỗ chở khách đến cúng bái, đó còn chưa nói những đoàn đi xe hai bánh kẻ tới người lui dập dìu. Bà con quê tôi rất thích đi viếng bốn Ông Thẻ, lâu lâu là rủ đi, trong đoàn đây có người đã đi viếng nhiều lần mà vắng lâu thì cũng thấy nhớ.
Đoàn tôi đi hai xe mỗi xe 16 chỗ ngồi, ban tổ chức điều động lên xe  vào lúc bốn giờ rưởi sáng. Tôi cho đi như vầy là quá sớm muốn dời thêm một giờ mà không được. Đến Ông Thẻ Vĩnh Hanh vào lúc trời mới 6 giờ rưởi sáng. Tưởng mình đi như vầy là sớm nhứt, không ngờ có hai chiếc xe khác còn đến sớm hơn, họ làm khách mở hàng, đậu sẵn trước cổng, trong dinh tiếng chuông phát lên làm huyên náo một buổi sáng đẹp trời.
Tài xế nói đúng và tôi thấy được nguyên nhân mà nhiều bà con lúc nầy đi viếng bốn Ông Thẻ nhiều là do sự vận hành của bộ máy Thiên Cơ, các vì trên trước huyền nhiệm dẫn dắt để người đời, cho dù, nhà còn lắm công nhiều việc cũng không quên vùng địa linh, nơi bảo vệ sự bình an cho cả đồng bào miền tây nam bộ, đến thắp nhang cầu nguyện, kính bái sự thi ân bố đức các vì trên trước, để từ đó học hạnh hiền nhơn quân tử, tiếp nhận và truyền thừa đời đời BỬU SƠN KỲ HƯƠNG, ĐỨC PHẬT THẦY TÂY AN hiện hữu dỗ về bá tánh.
Rời khỏi dinh thờ Ông Thẻ số 1, xe trên đường đến chùa Tam Bửu thuộc trị trấn Ba Chúc còn xa, tôi nghĩ nhơn thời gian còn dài nên nói chút ít vì đó với các bạn đồng hành ghi kỹ niệm, làm ấm áp thêm chuyến hành hương:
Kính thưa bà con, hôm nay chúng ta cùng một trọng tâm đi chiêm bái bốn Ông Thẻ, tôi xin có đôi điều muốn nói với quý vị mình: một về hành trình của chuyến đi; hai, ý nghĩa của bốn Ông Thẻ là mục tiêu hướng tới của chúng ta.
Hành trình: Hợp đồng với quý bà con là chúng ta có đến chiêm bái Dinh Đức Cố nơi phát sinh kỳ công kỳ tích (lò rèn đúc vũ khí cho đội binh Đức Cố) nhưng giữa chừng theo lời xác định của chú tài xế, tuyến đường rẻ phải từ chợ Vĩnh Bình (cầu số 5) đến dinh Đức Cố, nhằm thời điểm nước lũ dâng cao, vì bảo quản đê đường, quan chức trong làng đã treo bảng cấm xe bốn bánh di chuyển nên đoàn chúng ta không thể vào đó được. Đây là trường hợp xảy ra ngoài ý muốn mong quý bà con hoan hỉ, còn nữa, lịch trình hôm nay chúng ta cũng không đi theo hệ thống hàng dọc: một, hai, ba, bốn mà là một, bốn, ba, hai và thuận theo tuyến đường, đoàn cũng nên ghé chùa Thới Sơn kính bái ngôi thờ Đức Phật Thầy. Vậy, nếu giờ không vào dinh Đức Cố ở vùng Bảy Thưa được, chúng ta dừng chân viếng chùa Tam Bửu trước khi đến Ông Thẻ số 4. Nếu quý bà con mình chưa bụng ai kêu đói thì tôi đề nghị chúng ta thống nhất ý kiến đợi đến dinh ông thẻ thứ tư hãy dùng cơm thay vì ghé mấy tiệm chay dọc đường.
Về ý nghĩa bốn Ông Thẻ mà đoàn chúng ta phát tâm đi hành hương chiêm bái, theo sự hiểu biết của tôi, bốn Ông Thẻ ở vào các vị trí như một cuộc sắp trận có bốn thiên tướng trấn giữ miền tây nam bộ, bảo an bá tánh sống đời lạc nghiệp xứ ruộng đồng, để từ sự bảo an lạc nghiệp đó con người đón nhận một cách thân thiết tư duy đạo đức của bốn ngôi Phật, Thánh, Tiên, Thần, hòa nhập cộng đồng, các giai tầng xã hội để cộng đồng và xã hội thăng hoa. Người ta đã so sánh nhân dân ở miền tây nam bộ rất hiền hòa, dễ dải, thân mến, có thể do bốn thiên tướng hóa duyên mà con người hoán đổi căn cơ thành con của Phật, Thánh, Tiên, Thần nên đã ứng xử với nhau những điều đạo nghĩa, quày đầu hướng thiện để đất lành chứa vựa người lành.
Xưa Mạc Cửu người Tàu sang nước ta sinh sống, là những tướng binh của nhà Minh bại trận với nhà Thanh, xin vua ta cho một ít đất vun thân, hứa theo lễ chư hầu hằng năm triều cống. Nhưng họ Mạc nầy rất giỏi về địa lý, đã khám phá miền tây nam nước Việt là nơi địa linh nhân kiệt, tên nầy không muốn Việt Nam có quá nhiều của phụ ấm thiên nhiên ưu đải nên đã dùng bùa ếm phá cho địa không linh, người không thiêng. Theo quyển Thất Sơn Mầu Nhiệm của hai cây bút cự phách trên văn đàn PGHH: Dật Sĩ, Nguyễn Văn Hầu, tính từ cái ếm của họ Mạc đề năm 1792 thì khoảng 60 năm sau Đạo Bửu Sơn Kỳ Hương, Đức Phật Thầy Tây An ra đời phổ độ chúng sanh. Ngài thấy được ý đồ bất chính của tên họ Mạc kia nên xai Đức Cố Quản Trần văn Thành (ông nầy là một đệ tử hàng đầu của Phật Thầy), chỉ cho các vị trí cấm bốn cây thẻ ở mỗi nơi. Một điều kỳ lạ, bốn nơi xa cách đều mang chung một họ Vĩnh: Vĩnh Hanh ông thẻ số 1, Vĩnh Thạnh Trung ông thẻ số 2, Vĩnh Tế ông thẻ số 3 và Vĩnh Điều ông thẻ số 4.
Thưa quý bà con, kể lại nguồn gốc của bốn ông thẻ tôi ví như bốn thiên tướng làm vô hiệu phép trù ếm của quân họ Mạc đối với nước ta, đồng thời, bốn ông đây còn chuyển hóa phù sa cho đất đai thêm mầu mở, trồng trọt thuận lợi, trúng mùa, đời sống nhân dân trong vùng ổn định, tinh thần chan chứa tình thương đồng bào nhơn loại các miền, nhất là miền Trung, đồng bằng ít, đồi núi lại nhiều, đất trồng trọt không bao nhiêu nghèo đói là tất nhiên mà mỗi năm phải chịu nhiều trận bão dữ, tàn phá hoa màu, nhà cửa và lắm cơn bão dẫn đến chết người. Nhân dân sông nước miền tây hiền lành phúc hậu, chịu sự giáo huấn của Bửu Sơn Kỳ Hương, Phật Giáo Hòa Hảo về đạo đức, nhân nghĩa, thấy ai đói khổ thì thương. Đối với ba miền đất nước Nam, Trung, Bắc, miền Nam được thiên nhiên ưu đãi về trồng trọt, nông nghiệp làm vựa lúa của ba miền, nhân dân trong vùng vựa lúa rất thảnh thơi về ăn, ở, Đức Thầy dặn dò người trong vùng vựa lúa hãy cứu giúp hai miền kia:
Nam Kỳ đâu thể sống riêng
Mà còn cung cấp cho miền Bắc, Trung”.
Quân đội Nhựt đảo chánh bọn Tây, làm chủ tình hình, họ đã thấy gia tài của miền Nam kiệt quệ trầm trọng vô phương cứu chửa, đồng tróng ruộng hoang. Trong sự thách thức tìm cách giải nguy họ bổng nhớ lại một người, là bậc đạo hạnh tuyệt vời, vị nầy nói ra như phát lệnh, là giáo chủ một tôn giáo bản địa có đông đảo tín đồ, phải nhờ Ngài mở cuộc “Khuyến Nông” dỗ an bá tánh “Nắm tay trở lại cánh đồng” cứu nguy tình thế, người đó chính là Đức Thầy Huỳnh Giáo Chủ:
“Hỡi đồng bào ! Hỡi đồng bào !
Thần chết đã tràn vào Trung Bắc,
Ngày lại ngày siết chặt giống nòi.
Lật qua các báo mà coi,
Thấy con số chết xem mòi kinh nguy.
Cũng tại vì Tây-di bày kế,
Phá hoại nền kinh tế nước ta.
Làm cho điên đảo sơn-hà,
Làm cho điêu đứng con nhà Lạc-Long…
… Giờ đây xem lại mùa màng,
Năm rồi miền Bắc tan-hoang còn gì.
Chỉ có xứ Nam-Kỳ béo bở,
Cơ hội nầy bỏ dở sao xong.
Cả kêu điền chủ phu nông,
Đứng lên đừng để ruộng đồng bỏ hoang.”
Từ câu “Nam kỳ đâu thể sống riêng, mà còn cung cấp cho miền Bắc Trung” và “Thần chết đã tràn vào Trung Bắc” với một kết luận đáng ghi nhớ “Chỉ có xứ Nam Kỳ béo bở…” vì chỉ có xứ Nam Kỳ béo bở nên Đức Thầy“cả kêu điền chủ phu nông, đứng lên đừng để ruộng đồng bỏ hoang”… đủ thấy miền Nam nước Việt là nơi nhân dân có sự bảo an của bốn ông thẻ, bốn vị thiên tướng giữ mực sống ổn định từ vật chất lẫn tinh thần.
Được ở trong vựa lúa và tình người như đã nói, chúng ta có bổn phận đối với những tiền bối giữ cho ta vùng đất linh thiêng không bị họ Mạc quấy nhiểu mất đi ảnh hưởng đáng được tôn thờ, để hôm nay cũng như mọi hôm qua và vị lai muôn thuở, chúng ta có an cư lạc nghiệp, đi cúng bái di tích lịch sử Bửu Sơn Kỳ Hương tỏ lòng biết ơn của người ăn trái nhớ kẻ trồng cây, uống nước nhớ ơn người đào giếng.
25/10/2018.

Thứ Năm, 18 tháng 10, 2018



NGHÈO THƯƠNG NGƯỜI NGHÈO

Hôm dự lễ khánh thành cầu “TÌNH THƯƠNG”, trên đường về đoàn có ghé lại đình thần Nguyễn Trung Trực ở thị xã Rạch Giá cho bà con nguyện cúng đúng như hợp đồng. Nay mới có 21 tháng 8 mà không khí lễ đã náo lên những màu sắc, chuẩn bị băng, cờ, thắc hoa vải để ngày 27 , 28 chánh cúng lễ đình, cung nghinh hương linh Quan Thượng Đẳng đại thần Nguyễn Trung Trực, người đã lập được hai chiến công phá đồn Kiên Giang và đốt tàu quân xâm lược Pháp ở sông Nhựt Tảo về chứng giám.
Các tổ chức từ thiện dựng lên nhà tiền chế đải cơm, bánh, nước… cũng đã đến dọn chỗ sẵn để vài ngày tới vào cuộc. Chưa gì đã thấy, đoán được, mùa lễ cúng Quan Thượng năm nay tưng bừng náo nhiệt dường nào. Cũng phải, đối với bực anh hùng cái thế làm cho quân Pháp bao phen khiếp đãm rất đáng được dân chúng nhớ ơn, thờ phượng. Đức Thầy có câu:
“Tử vì nước còn ghi linh miếu
Thác vì đời thanh sử danh bia.”
Để ghi lại hai chiến công hào hùng của cụ Nguyễn, nhà thơ Huỳnh Mẩn Đạt viết:
“ Lửa hồng Nhựt Tảo oanh Thiên địa
Kiếm Bạc Kiên Giang khấp quỷ thần.”
Tôi lễ bái xong ra ngoài hóng mát một chút thì đi tìm nhà vệ sinh để chừng về không khó chịu trên đường xa. Bước vào khu vệ sinh nam, không cần phải vào phòng đã thấy một người đàn ông tắm trần truồng, một người đàn ông khác lớn tuổi hơn trông vẻ rất phong trần, anh ta không tắm, trên mình còn mặc đồ kín đáo, hé cửa phòng vệ sinh múc nước sối cho người kia tắm và kỳ cọ giùm. Tôi thấy vậy liền quay ra mà lòng đắn đo vì đang mắc tiểu nên quay lại nhìn như thăm chừng coi họ có chịu ra chưa đặng mình đi vào. Bấy giờ tôi mới phát hiện người trần truồng ấy đã bị bệnh bại liệt một phần thân, tay chân còn lại cũng chỉ ngo ngoe. Tôi ra trước ngồi đợi, cũng biết cảm thương người bệnh tật nhưng có hơi trách anh kia: nhà vệ sinh có chỗ dành riêng để tắm và hàng chục phòng cầu xí, sao không đưa anh bệnh liệt nầy vào cái phòng nào đó tắm cho lịch sự một chút, đở làm phiền nơi công cộng. Hôm đó nhiều người mắc vệ sinh như tôi, đến thấy vậy đều bỏ ra, có người đi luôn, có người lóng nhóng phía ngoài mà đợi. Tắm xong, người khõe mặc đồ tiếp cho người mang tật, chỉ là quần sà lỏn áo thun và cổng ra khỏi đó. Tôi tự lý luận, hai người nầy chắc cũng tình ruột thịt mới đủ khả năng phục vụ tận tình như vậy, hoặc người mạnh khõe ấy ra công làm mướn, thế người tàn tật kia thuộc dạng khá giả sao? Không đúng, nếu khá giả mướn người giúp việc thì phải làm việc ấy trong nhà mình, lý đâu lại tắm ké và trần truồng nơi công cộng.
Vệ sinh xong tôi tìm các bạn đồng hành. Đoàn hơn sáu mươi người tham quan rời rạc, từng tốp năm ba người hoặc ra vành biển hóng gió, hoặc rủ ren đi chợ mua sắm, tôi cũng dạo đó đây vài nơi, chừng lại phía trước cổng Đình, thấy người bại liệt chân được cổng ra khi nảy ngồi trên chiếc xe lăn, tay cầm cọc vé số, thấy ai ghé vào Đình chú gồng miệng mời mọc qua giọng nói đớt đát khó nghe, lòng tôi cảm thương người tàn tật nhưng thuở giờ không chơi đánh số, đâu thể nào mua giúp chú được. Đứng thấy chú bán vé số ngồi trên xe lăn, mỗi lần rao mời là bẻ miệng thật là tội nghiệp quá đi, tuổi thân cho chú ta quá. Tôi muốn chạy trốn sự thật phủ phàn nầy cho đở thương tâm mà ngoài trời nắng nóng như nung, cái cảnh còn khó chịu hơn. Bỗng Trời cho đổi màu, nhạt nắng, gió lùa mát mẻ, dễ chịu quá, tôi ra đường, rẻ về phía hông phải của ngôi Đình tìm những người, xe đồng hành rủ về nhà cho kịp trước khi trời tối. Tình cờ tôi lại gặp vị ân nhân của chú ngồi xe lăn, người đã tắm rửa giùm chú ngoài hành lang nhà vệ sinh và cổng ra ban nảy, chú ấy cũng bán vé số. Được biết, mỗi ngày khi vác trưa nóng bức, tránh cái nắng nóng thì đi làm việc nghĩa với bạn đồng nghiệp tật nguyền. Bây giờ tôi mới rõ ra, họ không phải là bà con ruột rà nhưng sống chung cái quyền nghèo khổ thì phải biết thương nhau, dựa vào nhau cho sự sống nghèo có thêm niềm tin và sức mạnh để vượt qua mọi khó khăn về tự ti mặc cảm. Chú nghèo đến đổi không xắm nổi chiếc xe đạp, bán vé số xa gần cũng chuyên môn là lội bộ, có bửa trời mưa dầm chú phải đội nón lá lên, hoặc choàng mình một chiếc áo mưa cũ bẩn, cố bán cho hết cọc vé số không sẽ bị lỗ nặng.
Chú ấy chìa cọc vé số trước mặt tôi trong khi tôi đang đi, thấy chú tôi thật là cảm động, vì nghèo tới đâu chú cũng không sờn lòng làm chút phước duyên, tranh thủ thời gian làm việc nghĩa cho ông bạn tật nguyền chung nghề nghiệp với mình. Tôi không thể mua tiếp chú vé số, vì nghĩ rằng nó giống như cờ bạc, tính ăn thua còn đậm hơn những kẻ chơi bài; nhiều gia đình có đất đay, bề thế, mà nghiện số cũng phải tiêu tan sự nghiệp, bỏ nhà trốn nợ một nơi xa, hoặc đi đầu quân vào khu công nghiệp Bình Dương…
Ngồi trên chuyến xe về lòng nghe nặng trỉu tình thương cảm với hai người bán vé số, người tật nguyền kia tôi cho là số kiếp, đương nhiên sẽ gặp bất hạnh phủ lên cuộc sống. Nhưng may mắn là chú có một đồng nghiệp tốt. Tôi cảm thấy thương đồng nghiệp của chú nhiều hơn bởi anh ta có nghĩa cử nhân đạo, biết thương người mất khả năng tự chăm sóc bản thân như chú.
Trên xe có máy đọc giảng, ngay từ lúc đi, khán thính giả trên xe yêu cầu tôi đọc ngâm Sám Giảng của Đức Thầy cho mọi người cùng nghe. Tôi trả lời: đã lớn tuổi, âm thanh phát ra ồ ề lắm, giọng đâu còn trong trẻo như hồi còn trẻ mà quý vị yêu cầu, thông cảm nha! Bị từ chối đọc ngâm Sám Giảng, người ta yêu cầu tôi thuyết một đề tài khuyến tu tôi cũng từ chối vì sức khõe mấy nay không được tốt, nói chuyện hay bị hụt hơi. Nhưng chuyến về, dù chuyến đi tôi từ chối không đọc ngâm Sám Giảng hay thuyết trình giáo lý PGHH nhưng bà con trên xe cũng cứ mời. Lòng có mang tâm sự, chợt nhớ một đoạn trong quyển Sám Giảng “GIÁC MÊ TÂM KỆ”của Đức Thầy, ngồi ở hàng ghế sau cùng tôi đứng dậy tiếp míc, nắn nót âm tơ:
                      “Đức Thượng-Đế ngự đền Ngọc-Khuyết,
Nhìn dương-gian cũng luống thở dài.
Thấy chúng sanh trau trỉa mặt mày,
Chớ chẳng chịu trau tâm trỉa tánh.
Kẻ đói khó người sang hay lánh,
Bước lại gần chê lủ tanh hôi.
Cõi ta-bà ta thấy hỡi ôi!
Sầu bá-tánh quá nên kiêu-cách.
Người tàn-tật đui cùi đói rách,
Ít có ai để mắt nhìn vào.
Chuộng những người dù võng sắc màu,
Cậu với mợ, ông, thầy, cô, bác …”
Lạ thiệt! lâu rồi, tôi ít khi đọc ngâm Sám Giảng được cái giọng khõe thế nầy. Khán tính giả trên xe khen tôi già mà vẫn còn tốt tiếng. Tôi nghĩ, tiếng tốt và giọng khõe của tôi hôm nay có lẽ do lòng mình chở nặng tình thương hai người nghèo khổ, mà Giảng Kệ của Đức Thầy nhịp vào đúng lúc khiến tâm tư tôi bay luyện…
19/10/2018