Chủ Nhật, 4 tháng 1, 2015

(II) “ĐỨC PHẬT THẦY TÂY AN VÀ VUA QUANG TRUNG NGUYỄN HUỆ” (Phần tiếp theo)

3. PHẬT THẦY HỌ HOÀNG HAY HO LÊ VÀ QUYỂN GIẢNG TÒNG SƠN

Cư sĩ Sripolieu viết: “căn cứ vào mộ bia ở núi Sam Phật Thầy tên Đoàn Minh Huyên. Nhưng nếu ta đọc trên bàn thờ tổ đường ở Mộ Bà Cái Nai, nơi mẹ Phật Thầy ta lại thấy thờ hai họ Hoàng (Huỳnh) và họ Lê, mà không thấy có họ Đoàn là họ cha của Phật Thầy và chẳng biết mộ cha Ngài ở đâu: đáng lẽ Ngài phải mang họ Hoàng hay họ Lê mới đúng.
Đạo Phật Thầy là đạo đặt nặng tứ trọng ân, trong đó có ân cha mẹ đứng đầu. Vậy tại sao không thấy Ngài thờ họ Đoàn là họ của cha Ngài: trong khi phong tục thờ cúng ông bà của dân tộc ta là chế độ phụ hệ, lấy họ cha là hệ tộc. Chính vì thế mà có Sấm giảng nói Phật Thầy là Lê Hướng Thiện. Lấy họ mẹ” (trang 45, 46 sách tập 1)
Theo nhận xét cư sĩ Sripolieu, căn cứ vào bàn thờ tổ đường ở Mộ Bà Cái Nai và quyển giảng Tòng Sơn để xác định cho họ của Đức Phật Thầy Tây An như trên, là một điều hết sức sai lầm. Bởi:
a. Bàn thờ nơi ngôi Mộ Bà Cái Nai có ghi họ Lê và họ Hoàng không phải bàn thờ thân Mẫu của Đức Phật Thầy từ xưa lưu lại. Bàn thờ đó chính là bàn thờ ông quan phủ Bỉnh (người sinh quán tại Cái Tàu Thượng) một con người đương thời theo chánh quyền Pháp cai trị nước ta. Vấn đề này, chúng tôi sẽ nói vào một chương mục sau.
b. Vấn đề Sấm giảng nói Phật Thầy Tây An tên Lê Hướng Thiện: Trong các tài liệu xưa nay thuộc hệ phái Bửu Sơn Kỳ Hương, chúng ta chưa thấy tài liệu nào nói Phật Thầy là họ Lê; chỉ có quyển giảng “Tòng Sơn” đề cập thôi.
Đại cương quyển giảng Tòng Sơn nói:
Thân phụ của Đức Phật Thầy là thầy cai, tên Sử, họ Lê. Đức Phật Thầy tên Lê Hướng Thiện (trong đây không thấy nói rõ tên họ thân mẫu của Đức Phật Thầy). Một hôm Phật Thầy cùng mẹ đi góp lúa ruộng, bà thương dân nghèo, bớt cho tá điền năm dạ lúa để làm giống. Khi về nhà số lúa thu bị thiếu, ông Cai Sử đánh và đuổi mẹ con Phật Thầy ra khỏi nhà. Từ đây Ngài cùng mẹ với chiếc xuồng bần đi bán trầu cau nuôi sống. Sau thời gian mẹ mất, Phật Thầy tu thành Phật trị bệnh cho bá tánh rất tài. Tiếng vang đến tai một vị quan người Pháp, mời Phật Thầy về nhà chữa trị bệnh cho một bà Đầm. Phật Thầy nói bệnh nhân kia tới số, nên Ngài không chịu cứu chữa. Ông Tây nổi giận, bắt Phật Thầy bỏ vào củi sắt, quăng xuống sông…
Quyển giảng “Tòng Sơn” thời gian năm 1940 về trước, chúng ta thường nghe người dân các tỉnh Miền Tây nước ta còn đọc. Nhưng sau nầy những nhà tai mắt trong đạo xét thấy không hợp lý về thời gian, nên gạt bỏ nó ra khỏi hệ phái Bửu Sơn Kỳ Hương Lâu rồi !
Theo sử liệu Phật giáo chứng minh: những vị Bồ Tát, những bậc vĩ nhân thì cha mẹ phải là bậc nhân từ phước đức, mới sinh được quí tử (1). Ông Cai Sử như giảng Tòng Sơn nói, thì ông là con người đầy lòng ích kỷ, hung bạo, sống trên mồ hôi nước mắt của dân nghèo, làm gì sinh được một vị cứu tinh nhân loại trong buổi hạ ngươn này?
Vã lại, Đức Phật Thầy tịch ngày 12 tháng 8 âl năm 1856. còn Pháp hoàn toàn chiếm ba tỉnh miền Tây (2) của ta vào 24 tháng 6 năm 1867. Tính ra, Đức Phật Thầy tịch trước người Pháp làm chủ tình hình ba tỉnh miền Tây (Nam bộ) là 11 năm, lúc đó đâu có chánh quyền Pháp, thầy cai tên Sử? Đâu có bà Đầm đau, và ông Tây bắt Phật Thầy quăng xuống sông ?
Như vậy, quyển giảng Tòng Sơn là một giả thuyết hoang đường, không hợp vơi chân lý và thời gian. Chúng ta không lấy đó xác định cho tên họ của Đức Phật Thầy như thiểu số người và cư sĩ Sripolieu đã lầm đường.


(1) Trường hợp ông Cổ Tẩu ( cha của vua thuấn) có thể là ngoại lệ, còn nhiều nghi vấn, nên không xác định được vấn đề.
(2) Ngày 20-06-1867, Pháp chiếm Vĩnh Long.
     Ngày 22-06-1867, Pháp chiếm Châu Đốc.
     Ngày 24-06-1867, Pháp chiếm Hà Tiên.  

4. CƯ SĨ SRIPOLIEU NHẬN LẦM ĐẠO CỦA PHẬT THẦY LÀ ĐẠO TIÊN:

Cư sĩ Sripolieu viết:
 “Riêng chiếm non Bồng một cảnh tiên,
Tu trì pháp đạo khác màu thiền;
Nước kinh rửa sạch lòng phàm tục,
Bùa Phật dành dưng kẻ thiện duyên   
Đạo Phật Thầy là đạo Tiên chớ không phải Thiền Tông, vì đạo Tiên còn phải xuống trần cứu dân, cứu nước khi lâm nguy. Như chuyện khương Tử Nha tu tiên trong cung Ngọc Hư vâng lệnh thầy là Ngươn Thỉ Thiên Tôn mà xuống giúp nhà châu dựng nghiệp 800 năm. Cho nên Phật Thầy tự xưng là Tây An cư sĩ” (trang 40 sách tập 1)
Cư sĩ Sripolieu nhận sai ý nghĩa hai câu thơ trong bài “Thập Thủ Liên Hoàn”của Đức Phật Thầy như đã chép ở trên, nên cư sĩ cho đạo của Đức Phật Thầy là đạo Tiên khác với đạo Thiền Tông Phật giáo.
ý nghĩa bốn câu thơ của Đức Phật Thầy chúng tôi xin nhận xét:
- Cảnh Tiên hay non Bồng: ở đây chỉ cho cảnh núi non yên tĩnh, mà xưa kia người chán đời thường về ẩn dật để tu hành. Chớ không phải người nào tu ở núi cũng theo đạo Tiên hết.
Đức Thích Ca ở núi Hy-Mã-Lạp-Sơn, Trí Khải Đại Sư lập đạo ở núi Thiên Thai và Hy Vân Thiền Sư tu ở núi Hoàng Bá… đều là những người tu Phật.
- Khác màu thiền: Đây ý nói tông chỉ đạo của Đức Phật Thầy dạy tín đồ: ăn ngay, ở thẳng, làm lành lánh dữ, tự làm tự sống, không thọ củ đàn na tín thí, và lo đền đáp tứ trọng ân, về nghi thức thờ phượng Ngài dạy thờ một tấm trần Điều. Ngoài bông hoa, nước lã và nhang đèn trên bàn thờ Phật, không có bài vẽ món chi thêm nữa. Đây khác hẳn với những chùa chiền: đúc Phật lớn, chùa cao, âm thinh sắc  tướng, tạo lầu kho xá mã và chuyên việc tụng kinh mướn.
Về ý nghĩa nầy ông Ba Thới, một cao đồ trong hệ  phái Bửu Sơn Kỳ Hương nói rõ:
“Thương là thương đạo có căn,
Ghét là thiệt ghét sãi tăng chùa chiền”
(Tiền Giang)
Và:
“Tu thiền nghĩ thiệt nhiều công,
Tu mong làm mướn tu không Phật Trời.”
(Thừa Nhàn)
b. Theo cư sĩ Sripolieu nhận xét, chỉ có đạo Tiên như Khương Thượng mới giúp nước lúc lâm nguy. Còn đạo Phật cơ hồ như tiêu cực trong tĩnh mịch vô vi.
Nhận xét nầy không đúng với chủ trương đạo Phật. Đạo Phật xưa nay lây tứ ân làm trọng. Trong đó có ân quốc vương (nay đổi lại là ân đất nước). Người tín đồ nhà Phật ngoài công việc giải thoát khỏi bể trầm luân, còn có trách nhiệm của một công dân đối với Tổ quốc mình khi bị xâm lăng giày xéo. Thế nên, các Đại sư nước ta xưa kia vẫn phải bế cửa thiền môn để bảo vệ nước nhà trong hồi quốc gia khuynh đảo.
Đồng một tư tưởng nầy, nhà ái quốc đáng kính Phan Chu Trinh đã nói trong một bài diễn thuyết năm 1907: “Tôn giáo luyện cho ta đức hy sinh, xem nhẹ tánh mạng, phá sản vì đạo; không có tin thần tôn giáo, chúng ta không biết được cương thường, xả thân vì nghĩa, chỉ bo bo giữ lấy cái lợi của riêng mình. Này bà con thử nghĩ: đời Trần sao dân tộc ta hùng dũng như vậy? Quân Nguyên thắng cả Á và Âu, nuốt trọn Trung Hoa mà đến nước ta thì bại tẩu? Nào bị cướp sáo ở Chương Dương Độ, nào bị bắt trói ở Hàm Tử Quan, rồi ôm hận ở trận Vạn  Kiếp, chịu nhục ở trận Bạch Đằng?”
5. XIN XÁC NHẬN ĐẠO CỦA PHẬT THẦY LÀ ĐẠO PHẬT:
a. Danh hiệu: Danh hiệu Ngài là Phật Thầy, thì đạo của Ngài là đạo Phật, chớ không nói là đạo Tiên, hay đạo thánh gì được? Cũng như quốc tịch ông A chữ Việt đứng đầu, thì ông A vẫn là người Việt Nam, không thể nói ông A là người Triều Tiên, hay Thái Lan gì đặng!
b. căn cứ trong bài “Giác Mê” của Đức Phật Thầy trong ấy có câu:
“Khác thì uống nước Tào-Khê,
Đói ăn ma-phạn tối về canh tân.”
Tào Khê (địa danh) nơi Đức Lục Tổ Huệ Nặng hoằng pháp Thiền Tông. Nên nói đến Tào-Khê tức ám chỉ cho đạo của Đức Phật Thầy là truyền thống dòng Thiền Tông Phật giáo rồi đó.
c. Về kinh sách đạo Tiên, chúng ta chưa thấy kinh nào đề cập đến danh từ “Cư sĩ”. Cho đến quyển “Thanh Tịnh Kinh” là một quyển kinh căn bản của Đức Thái Thượng Lão Quân thuyết, vẫn chưa thấy chỗ nào có danh từ cư sĩ bao giờ. Ngược lại tổ chức đạo Phật, luôn kết nạp hai hạng người: xuất gia (tu sĩ) và tại gia (cư sĩ), mà Đức Phật Thầy lấy danh hiệu Ngài là “Tây An cư sĩ”, tức tự nhận Ngài thuộc về hạng tại gia cư sĩ theo hệ thống Phật Giáo vậy.
d. Căn cứ theo Sấm Truyền.
Trong Sấm Truyền “Đức Phật Thầy Tây An”, Đức Phật Thầy xác nhận đạo của Ngài là Đạo Phật Thích Ca, như câu:
“Nhiệm mầu vui đạo Thích Ca,
Thiền môn hứng chí Di Đà lòng chuyên.”
(trang 68)
Tuy nhiên, ở đây chúng tôi xin mở ngoặc để nói về hai bộ truyện “Tây Du” và “Phong Thần”, tức là hai bộ sách triết lý đạo Phật và đạo Tiên. Truyện Tây Du do Ngài Khưu Trường Xuân (tu Tiên) viết, truyện Phong Thần do Ngài Bạch Vân thiền thiền Sư (tu Phật) viết.
Hai Ngài mượn cốt truyện tu sĩ Trần Huyền Trang đi Ấn Độ thỉnh kinh, và Khương Tử Nha chỉ huy quân đội cách mạng đánh bại chế độ khắc nghiệt (Trụ Vương), giải phóng dân tộc Trung Hoa, để nói lên triết lý đạo Phật và đạo Tiên v.v…
Ngài Khu Trường Xuân viết bộ truyện Tây Du tỏ cho Bạch Vân Thiền Sư và tăng chúng biết rằng dù Ngài tu Tiên nhưng vẫn am hiểu triết lý cao siêu mầu nhiệm của đạo Phật. Chớ sự thật trên thực tế không có Tề Thiên Đại Thánh náo loạn Thiên Cung, Sa Tăng lấy sọ người làm xâu chuỗi mang cồng kềnh trên cổ, và Bất Giới ham ăn, mê ngủ, Thích gái. V.v…
Và Ngài Bạch Vân Thiền sư viết bộ Phong Thần để chứng tỏ cho Khu Trường Xuân và giới người tu Tiên biết rằng, Ngài tu Phật, nhưng vẫn am hiểu lý ngũ hành sanh khắc bát quái biến di của đạo Tiên.v.v… chớ không có Dương Tiển với “Thất thập nhị huyền công”, bắt yêu trừ quái bảo vệ Võ Vương. Và cũng không có Long Tu Hổ một chân nhảy nhót tới đâu liệng đá cục ầm ầm như mưa bấc, làm cho tướng binh nhà trụ dập xương, lỗ đầu. Và cũng không có trận dữ của Tiên Triệt Giáo trang bị bốn gương linh(1) bốn cửa, chém đầu binh tướng và chư Thần, Tiên như chém chuối…
Vả lại truyện Phong Thần ngoài triết lý đạo Tiên và trách nhiệm một vị tướng tài năng Khương Thượng đối với quốc gia Trung Hoa. Nó còn có ý nghĩa khôi hài: nói chuyện trên trời, dưới đất, nói cho hả giận, và nói cho bỏ ghét, như: Dương Nhậm có đôi mắt thần dòm thấu dưới đất, rượt Trương Khuê thất kinh chạy sảng sốt cũng không khỏi, bị một chày nát sọ. Na tra rùng mình một cái biến ra ba đầu sáu tay, gặp binh tướng Trụ Vương xông tới đâm, đánh túi bụi, làm cho tướng giặc đứa lủng hông, đứa lẻo cổ. Và bọn Hồ Ly (phe Đắc Kỷ) hóa ra Tiên ông, Tiên cô ăn tiệc say xỉn rồi để ló đuôi chồn.v.v…
Dựa vào những điểm cốt yếu nói trên, chúng ta thấy luận thuyết của cư sĩ Sripolieu cho rằng: đạo của Đức Phật Thầy Tây An là đạo Tiên, là một điều tham khảo rất hời hợt, và một luận thuyết sai lạc với triết lý đạo Tiên và đạo Phật. Chúng ta đoán quyết và minh định rằng: đạo Bửu Sơn Kỳ Hương của Đức Phật Thầy Tây An là đạo Phật, đủ những chứng cứ và đúng với chân lý Phật gia không thể giải thích khác hơn! 

Chú Thích:
(1) Bốn gươm linh đó là: “ chẳng phải vàng đồng với sắt gan, nguyên xưa ở dưới núi lịnh San, há không nước lửa rèn trui bén, sẵn có âm dương chế luyện toàn, Hãm Triệt hai cây bay sát khí, Lục Trụ một cập chiếu hào quang, Thần Tiên muôn kiếp tuy linh hiển, gặp bốn gươm nầy cũng đứt ngang”
Về triết lý, bốn gươm ấy chỉ cho Tửu, Sắc, Tài, Khí. Các đạo sĩ xưa nay tu Tiên, hay tu Phật, cũng bỏ mạng vì nó rất nhiều.
                                                                            Tác giả: Bình Nguyên


(còn tiếp)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét