LƯỢC BÀN VỀ MỘT BÀI VIẾT (tiếp theo)
Trích dẫn:
“Sự
tách biệt trong tài liệu này giữa các bài giảng đạo Phật và các bài thơ có vẻ
như không chính xác. Ngay từ thời kì ấy, Huỳnh Phú Sổ thực tế là đã dạy đời
bằng miệng và dưới hình thức thơ – những bài thuyết giáo vừa áp dụng thuật dễ
nhớ vừa có tính cách giảng đạo. Huỳnh Phú Sổ cũng dùng những vần luật thơ ca
từng được Đoàn Minh Huyên và những người kế tục ông sử dụng. Một số trong những
ông này đã ghi lại các bài giảng của mình ra giấy. Bản tài liệu không xác định
rõ liệu những bài thơ được sáng tác bởi Huỳnh Phú Sổ, theo ý kiến của họ, có
phải là được cóp nhặt từ các tập thơ trên hay không. Có một sự giống nhau nữa
có thể nhận ra là về cách chữa bệnh. Ngoài việc thường sử dụng hoa cho vào nước
thuốc sắc từ thuốc nam, người ta còn nói “giấy vàng” liên kết lại phép mầu của
người thanh niên ấy với phép mầu của Đoàn Minh Huyên. Những người bệnh đến khám
quả thực đã hi vọng rằng giấy vàng sau khi đốt thành tro và uống vào có thể
chữa cho họ khỏi bệnh tật và phòng ngừa cho họ khỏi dịch bệnh, thậm chí bảo vệ
họ trước ma quỷ. Huỳnh Phú Sổ cũng sử dụng cách thức vừa chữa bệnh vừa giảng
đạo Phật (lợi sanh nhi hoằng pháp).” Ngưng trích.
Thuyết Pháp với giảng đạo là mấy
khác ? Ông Pascal Bourdeaux bảo rằng qua tài
liệu mà Ông nghiên cứu thì giữa các bài giảng giải về đạo Phật
bằng thơ nói của Đức Thầy là không chính xác. Bởi vì _ Ngay từ thời kì ấy, Huỳnh Phú Sổ thực tế là
đã dạy đời bằng miệng và dưới hình thức thơ _ (những câu trích dẫn dùng
chữ nghiêng) Nói dạy đời bằng miệng để dẹp bớt tính cao siêu của
một vị giáo chủ và người ta nếu cố tình sẽ gạt bỏ ý niệm Đức
Thầy có viết quyển Sấm Giảng Thi Văn Giáo Lý. Trong đạo PGHH, nhà ai
cũng có quyển Sám Giảng Thi Văn Giáo Lý để học hằng ngày hằng giờ,
thật tế như vậy mà Ông người ngoại diện dám ngang nhiên sửa nguồn
gốc lịch sử của đạo PGHH cho Đức Thầy dạy đời bằng miệng và dưới
hình thức thơ. Quyển Sám Giảng Thi
Vă n Giáo lý của Đức Thầy
thì Ông nói hơi hám _ “Huỳnh Phú Sổ
cũng dùng những vần luật thơ ca từng được Đoàn Minh Huyên và những người kế tục
ông sử dụng. _ Đánh đổ dần dần ra, Đức Thầy dạy đạo giùm chứ bản
Thân của Ngài không có gì hay ho trong việc độ chúng. Ông bảo một số
người kế tục sự nghiệp Phật giáo của Đoàn Minh Huyên Phật Thầy Tây
An _ Một số trong những ông này đã ghi
lại các bài giảng của mình ra giấy _ Ông
nói mỉa mai bóng gió như là Đức Thầy lấy những bài giảng đạo của
các đệ tử Đoàn Minh Huyên làm của mình.
Còn nữa, Ông thật quá đáng, nói
hơi hám cho đả để người tìm hiểu học tu theo PGHH coi mòi quá chán
cái sự thật không mấy tốt của vị giáo chủ thì Ông tóm kết bằng _ Bản tài liệu không xác định rõ liệu những
bài thơ được sáng tác bởi Huỳnh Phú Sổ, theo ý kiến của họ, có phải là được cóp
nhặt từ các tập thơ trên hay không. _ Ông tự đặt vấn đề _ Huỳnh Phú Sổ dại đời bằng miệng
còn nói trớ trêu là _ theo ý kiến
của họ _ để tránh va chạm.
Ông ăn nói sổ sàng như vậy mà nghe
được với một con người có học vị sao? Xin đừng thêu dệt nữa, đừng
nói là theo ý kiến của họ hay của ai nữa một cách nói hoang đường, bảo
là _ được cóp nhặt từ các tập thơ trên
hay không _ thì Ông cũng nên cho đọc giả biết xuất xứ từ các tập
thơ được Đức Thầy cóp nhặt chứ !
Tôi biết Ông không tìm được xuất
xứ bởi vì nó có đâu mà tìm. Ngay bản thân Ông đã học được cái thói
quen ám chỉ, hơi hám, bóng gió… để lập luận bài viết cho suôn là
xong chuyện. Sợ gì mắc mớ tín đồ PGHH đã đi học đạo ở cái Ông Thầy
chỉ giảng đạo bằng miệng thôi, không có bút tích. Nói đến Ông Thầy của
họ Ông không tiếc lời _người thanh
niên cuồng tưởng_.
Đức Thầy khai sáng PGHH từ năm 1939,
theo các cụ thì Ngài dùng “Tam Độ Nhứt Như” Thuyết pháp để truyền
giáo, viết giảng kệ để truyền giáo và độ bệnh để truyền giáo. Về
viết giảng kệ để truyền giáo bắt đầu từ năm khai sáng đạo, 1939 tính
đến nay hơn hai phần ba thế kỷ trôi qua đâu nghe vị đệ tử nào của Đức
Phật Thầy Tây An kiểu chính Đức Thầy cóp nhặt bài của các vị và
phản bác; đó là Ông cố tình chọc phá đức tin cho trong đạo sôn xao,
vướng bận để chậm lại sức phát triển. Ông cứ hở ra là nói tài
liệu nầy tài liệu nọ mà không chứng minh về tài liệu đó một cách
chính xác là của vị nào. Đức Thầy thuyết Pháp bằng miệng, còn các
bài viết đều là cóp nhặt qua các tập thơ của những đệ tử Phật
Thầy Tây An là lần đầu tôi mới nghe một mình Ông nói đó.
Trích dẫn:
“Đoàn
Minh Huyên cũng đã lưu danh hậu thế là Phật Thày đến từ Tịnh Độ ở Tây Phương
sau khi đã được gọi là Đạo Khùng vì thái độ chống lại việc thờ tượng Phật và
chủ trương giữ gìn sự thực hành đạo Phật đích thực của ông. Trong con mắt của
quần chúng nông dân, Huỳnh Phú Sổ được xếp vào dòng kế tục của Đoàn Minh Huyên.
Những cách gọi tên ông xuất hiện ít lâu sau (nhất là “Đạo Khùng”) xác nhận sự
kế thừa tinh thần Bửu Sơn Kì Hương của Huỳnh Phú Sổ.” ngưng trích
Ông lại sai thêm nữa. _Trong con mắt của quần chúng nông dân, Huỳnh
Phú Sổ được xếp vào dòng kế tục của Đoàn Minh Huyên._ Phật Thầy Tây An
và Đức Thầy hai mà một. Nói hai là nói về cái tiền thân và hậu
thân. Ông không phải trong đạo và cũng không có dịp đọc giảng, thậm
chí, viết về nguồn gốc lịch sử của đạo PGHH suốt một bài viết
nhiều trang mà Ông không chứng minh một câu giáo lý của Đức Thầy để
Ông tự ý phát sinh nguồn gốc lịch sử một tôn giáo không phải của
Ông. Sự thật của giáo lý tôn giáo là nguồn gốc lịch sử của tôn
giáo, Ông không biết giáo lý tức đồng nghĩa với không biết về nguồn
gốc lịch sử. Trong giáo lý có những câu rất là nguồn gốc, Ông không
đọc làm sao mà biết, ví dụ:
“Bửa xưa giảng kệ một nang,
Bởi vì ta mắc dời thoàn cảnh xa”
Và câu:
“Lời của người di tịch Núi Sam,
Chớ chẳng phải bài điều huyễn hoặc.
Cảnh thiên trước thơm tho nồng nặc,
Chẳng ở yên còn xuống hồng trần.
Ấy vì thương trăm họ vạn dân,
Nên chẳng kể tấm thân lao khổ.”
Câu có những chữ “giảng kệ một
nang” và “dời thoàn” là để đánh thức lương tâm quần chúng qua câu
chuyện Lúc Đức Phật Thầy ngụ dưới mái đình làng Tòng Sơn, Ngài để
cái mo nang trong đó có quyển giảng kệ, lá cờ và giấy vàng trên ngôi
thờ thần, Hôm Ngài đi về rạch Trà Bư, Xẻo Môn để trị bệnh cho bá gia
thì cách không lâu sau nơi làng Tòng Sơn dân chúng cũng phát bệnh lên
dữ dội, họ cho người đến Trà Bư Mời Phật Thầy trở lại độ bệnh dân
chúng. Xét Ở đây dân còn bệnh phải tiếp tục điều trị cho họ không
thể về Tòng Sơn được. Phật Thầy dặn dò người đại diện đến từ Tòng
Sơn Hãy về lấy cái mo nang ta để trên ngôi thờ Thần, lấy giấy vàng ra
chia dùng sẽ khỏi bệnh.
Câu trích dẫn hai “Lời của người
di tịch núi sam” là quá rõ nghĩa.
Còn nữa, trong quyển Sám Giảng Thi
Văn có ghi lại bài thơ Ông Tùng ở Vàm Cái Đầm hỏi Đức Thầy về gốc
gác đạo của Ngài ở đâu, lãnh sắc chỉ của ai. Đức Thầy viết trả
lời cho Ông ấy:
“ Sắc của A Di là Phật Tổ,
Bốn chữ xuống trần chớ ở đâu”.
Tên gọi của một tôn giáo thuộc đạo
Phật có bốn chữ, xưa nay chỉ có Bửu Sơn Kỳ Hương và giờ là Phật
Giáo Hòa Hảo.
Ngoài những câu dẫn chứng được
trích ra từ quyển Sám Giảng giáo lý xác định Phật Thầy Tây An là
cái tiền thân của Đức Huỳnh Giáo Chủ, còn có một câu chuyện phát
tích từ Ông Đạo Thắng một trong những đại đệ tử của Đức Phật Thầy.
Trước lúc Phật Thầy viên tịch có viết hai bài thơ đề tên “Bát Nhẫn”
và “ Đạt Đạo Ngao Du Chau Di Viễn Cận”. Bài Bát Nhẫn Phật Thầy để
treo trong phòng của Ngài, nhằm hôm Ông đạo Thắng đến quét dọn phòng
cho Thầy lấy đọc, còn bài “Đạt Đạo Ngao Du Châu Di Viễn Cận” Phật
Thầy nói với Ông Đạo Thắng: Ta nhập Niết Bàn rồi trở lại với thân thể
khác, nữa sau có vị nào viết và đọc được hai bài thơ nầy bằng chữ
hán chính là ta trở lại. Ông Đạo Thắng chờ mãi không nghe thấy Phật
Thầy trở lại, già sắp mãn đời Ông mới đem vụ việc nói lại người
cháu nội là Nguyễn Phước Còn. Năm 1939 Đức Thầy ra đời dạy đạo, Ông
Nguyễn Phước Còn nằm mộng ba đêm liên tiếp chư thần kêu đến Hòa Hảo
tìm Phật trở lại. Sở dĩ chờ kêu ba lần vì Ông Bảy Còn không tin
việc mộng là thật nhưng lần thứ ba bị chư Thần quở nặng buộc phải
đi. Đến Hòa Hảo gặp Đức Thầy, quả nhiên Đức Thầy viết liền hai bài
thơ bằng chữ hán đọc cho Ông Bảy
nghe. Ông bảy nhớ lại chuyện của Ông nội dạy, phục mình xuống lạy.
Rõ ra, Đức Thầy chính là Đức
Thật Thầy nhập Niết bàn rồi tái lâm phàm tiếp tục sự nghiệp Phật
Giáo vì thời cơ đã đến, không phải hàng đệ tử mà gọi là kế tục
hay kế thừa. Vì nhận định sai lầm nên Ông
Pascal Bourdeaux cho rằng vị trí khai sáng đạo PGHH của Đức Thầy là
không xứng đáng, gọi Ngài là “người thanh niên cuồng tưởng”, mộng cao
danh dự mà sự hiểu biết Phật pháp không nhiều, giảng đạo miệng còn
bài kinh kệ thì cóp nhặt của ai làm của mình.
Tôi may mắn được tiếp chuyện một
số các cụ hồi sanh tiền sống gần gủi Đức Thầy trong đó có bác sĩ
Trần Lũy, người theo học thuyết “duy vật sử quan”, đem hỏi chuyện với
Đức Thầy về thuyết thủy tổ của loài người là Khỉ, tóm tắc kể lại
chuyện mắt thấy tai nghe, Đức Thầy thuyết pháp và viết kinh kệ, tất
cả đều cung kính Đức Thầy là bậc siêu phàm như Ngài viết trong bài
Nang Thơ Cẩm Tú:
“Miệng nhích môi đầy văn tao nhã,
Hạ Bút thần thơ đã đề khai”.
Đi quá xa với thực tế, Ông Pascal Bourdeaux ơi!
20/1/2016.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét