BẠC LIÊU VÀ DẤU TÍCH CỦA ĐỨC THẦY
Tôi được mời đi một chuyến tham
quan ở tỉnh Bạc Liêu, lòng nảy sinh hai truyền cảm về Bạc Liêu yêu dấu mà tôi
chưa một lần đến đó để biết qua vóc ngọc của Bạc Liêu trân quý đến cỡ nào.
BẠC LIÊU VỚI HAI NIỀM NHỚ:
1 Thương Hiệu Nước Tương.
Có vào cửa xem Trăng, Sao của sau
cái móc thời gian đen tối nhất, chúng tôi nói riêng, những nhà tu nghèo nàn
dưới mái che cận sau 1975 hay nhắc tên “Bạc Liêu” trong sự sống, cùng thuở với việc “Mua Đinh Phải Xin Giấy”. Nhà bị
nghi có nhiều lúa vượt ngoài quy định về nhân khẩu thì bị “đo bồ”, xay ăn cũng
phải ra quan làng ký cho cái giấy mới được. Mua vải may mặc dẩu người rách rưới
cỡ nào cũng phải đợi đến kỳ, quan kêu mang sổ hộ khẩu ra cửa hàng nhà nước xin
mua. Chờ cho đả nhưng không phải muốn mua bao nhiêu thì mua, quy định mỗi người
chỉ được 4 tất thôi. Đem vải về tính may cái gì cũng không đủ, người trong nhà
phải nhường qua nhường lại, kết nối từng con số 4 tất cho một người, sắc màu
lộng lẫy, bông hoa đen đỏ trắng vàng sà bần.
May mặc hẹp té như vậy thì việc ăn
có đâu là sướng miệng. Lắm nhà phải ăn độn bốn sáu hoặc năm năm. Chúng tôi tu
hành ở am tranh, sự sống đã đạm bạc sẵn mà không đủ tiền để mua nước tương. Gì
sao? Nước tương có giờ là hàng tồn động của trước 1975, rất đắt giá trong khi
tiền của mình bao nhiêu triệu cũng chỉ đổi lấy một trăm đồng Bác, dư đâu để mua
nước tương giá đắt? Ngày lại ngày phải dùng “ Nước Tương Bạc Liêu”. Lúc nào hễ
ăn dù là “ăn độn” khoai trái hay rau đồng cũng phải chắm húp nước tương Bạc
Liêu, mới đầu cái lưỡi tăng tăng nhám nhám rất là khó chịu, buộc ăn riết thành
ghiền. Nhiều người gọi “Nước Tương Bạc Liêu”quen miệng mà chưa biết là một sáng
tác của vị Lạc Đạo An Bần nào. Quý đạo nơi am cốc trong tín ngưỡng PGHH tu
riết trong cái “An Bần”, dùng trường kỳ nước tương Bạc Liêu, quên nước tương
màu hồi nào không hay. Thương hiệu nầy có cái ưu điểm là dùng đến bao lâu cũng
không hôi mốc, chỉ mua một lít thôi, cho mặc sức dùng đến nửa năm sau mới hết
mà giá lại rẽ rề nghèo khổ cỡ nào mua ăn cũng nổi.
Mùa thu, đầu thập niên tám mươi, từ
Kiến An, tôi thích cái cảnh vắng lặng của Rạch Hang Tra mà một mình đến đó tịnh tu,
quanh chòi tranh có những cây gáo vàng to cao chót vót, treo đầy lá Hắc Sửu, khi
gió giông to những cây gáo vàng rung rẩy, hắc sửu vắt trên cây múa xuề xòa
trông khá đẹp mắt. Mùa nước mùa khô gì tôi cũng đem nước tương Bạc Liêu ra mà
“đụng trận” với Hắc Sửu, quân Hắc Sửu phải thua non, hết dám vũ điệu xuề xòa,
mình gầy xẹp lép lá ra không nổi. Quý huynh đệ tu ở núi Doi ngay mùa khổ của
1975, ăn độn bốn sáu với khoai mỳ mà mấy dãy hàng rào Nọc Trụ bà hai cho, cái
thứ mình mẫy gai gốc thấy mà ghét cũng bị nước tương Bạc Liêu đánh sập chết
hết.
2 Kỷ Niệm Gót Ngọc của Đức Thầy.
Tỉnh Bạc Liêu là nơi Đức Thầy lưu
trú qua thời gian khá dài. Không biết chính xác Đức Tôn Sư về Bạc Liêu vào ngày
tháng nào trong năm Tân Tỵ 1941, theo quyển SẤM GIẢNG THI VĂN, những loạt bài
Đức Thầy viết về xuân năm Tân Tỵ lúc Ngài ở nhà thương chợ quán, bài cuối để đi
về Bạc Liêu là bài “Cảnh Xuân” mà thời gian sáng tác chỉ đề là Tết
Năm Tân Tỵ. Cho đến ngày mùng 6 tháng 6, cách nửa năm từ bài viết có
tựa là Cảnh Xuân ở nhà thương chợ quán thì Ngài sáng tác bài “Đi Trình Báo” đề
xứ Bạc Liêu. Tính ra, Ngài lưu trú ở Bạc Liêu suốt một năm hai tháng( tính theo
móc thời gian của các bài sáng tác), từ bài “Đi Trình Báo” ngày 6/6 năm Tân Tỵ
đến bài cuối của xứ Bạc Liêu là “Những Câu Chú Thường Niệm” 24 tháng 8 năm Nhâm
Ngũ 1942 để bước qua trang xứ khác đất địa Sài Gòn mà vẫn còn thương tưởng
những tín đồ chân thành ở Bạc Liêu, hạ bút bài” Cho Cô Năm Võ Thị Hợi ở Bạc
Liêu” tại một thành phố náo nhiệt, Sài Gòn ngày 16/11/ nhâm ngũ 1942.
Từ Đức Thầy đến Bạc Liêu, ngụ nhà
Ông Ký Giỏi, chính quyền tỉnh buộc Ngài phải đến đồn cảnh sát trình diện vào
ngày thứ hai mỗi tuần. Gặp khó nhưng Ngài vượt khó để đến với chúng sinh bằng
những lời khuyên tu qua các bài viết: “ĐI TRÌNH BÁO, TAM NGƯNG LÝ THUYẾT, VỊNH
QUẠT MÁY, VỊNH CON BEO ĐÁ, CHO ÔNG HẠNH, VÌ SANH CHÚNG, NGŨ NGÔN CÁCH CÚ, MONG
CHỜ, NIỆM DI ĐÀ, CHO ÔNG VÕ VĂN GIỎI Ở BẠC LIÊU. GIẢI THOÁT CỬU HUYỀN, TỘI VỚI
THIÊN HOÀNG, TRÁI SẦU RIÊNG, MẤY ĐOẠN TƠ LÒNG, TƯ TƯỞNG, VỌNG BẮC HÒA NAM, ÔNG
PHAN CHÂU BÁ HỎI ĐỨC THẦY ĐÁP HỌA, BÀI NGUYỆN TRƯỚC BÀN THỜ CỬU HUYỀN, NÉM CẤP
BẰNG. CHO THẦY ĐỘI GIÀU, CHO ÔNG TRẦN QUANG HẠNH, THỨC TỈNH MỘT NỮ TÍN ĐỒ Ở BẠC
LIÊU, CHO ÔNG CÒ TÀU HẢO, CẢM TÁC, BUỒN, TỦI, GỞI BÁC SĨ CAO TRIỀU LỢI, CHO
THẰNG TÂN, HOÀI CỔ, DỤNG KINH QUYỀN, RỨT CÁI NGU ĐẦN. và đặc biệt hơn, trên xứ
Bạc Liêu nầy Ngài đã viết ra chín bài pháp luận bằng tản văn thâm sâu về thiền
môn học: THẬP NHỊ NHƠN DUYÊN, MÔN HOÀN DIỆT, ĐỨC PHẬT ĐỐI VỚI CHÚNG SANH, LỜI KHUYÊN
BỔN ĐẠO, PHẬT LÀ GÌ? CON ĐƯỜNG TRUNG ĐẠO CỦA PHẬT, CHƯ PHẬT CÓ BỐN ĐẠI ĐỨC, SƠ
GIẢI VỀ TỨ DIỆU ĐỀ, TRONG VIỆC TU THÂN XỬ KỶ, sau cùng là bài NHỮNG CÂU CHÚ
THƯỜNG NIỆM.”
Các bài viết của Đức Thầy tại xứ
Bạc Liêu rất có giá trị cho việc tu và những học giả muốn nghiên cứu về học
Phật PGHH.
Từ xứ sở có món ăn ngon được ca dao ngợi khen: “Chiều chiều
quạ nói với Diều, Cù Lao Ông Chưởng thiếu gì cá tôm ”Khởi hành từ lúc 21 giờ
16/9/ năm Quý Tỵ 21/10/2013, xe chạy suốt đêm, 7 giờ sáng hôm sau chúng tôi đến
điểm du lịch đặt tên cho một chuyến đi
“MẸ QUAN ÂM NAM HẢI”.Thật ra, đây là điểm tham quan tân thời không một chút cổ
tích nào. Các đoàn người xa về Bạc Liêu có một điểm chung là viếng khu tượng
đài Quan Âm Nam Hải trên một vùng lấn biển rộng bao la. Dân địa phương cho
biết, trước và cận sau năm 1975 khu nầy nước mênh mông, không nhà. Nhiều tin
hợp lại rằng: dân chúng chịu không nổi sự đói khổ thiếu ăn, thiếu mặc của cái
thời gian sau 1975, thật là khiếp đãm khi đã hút thuốc bằng giấy vò, gội đầu
bằng nước tro nên đã sắm tàu đi tìm tự do trên những quốc gia khác. Rủi thay!
Một số không ít những con tàu đã gặp phải sự xui rủi, chưa đến bờ tự do thì bị
đắm tàu dưới những con sóng hãi hùng, thây người trôi lểnh nghểnh, thuận gió
mùa đã tấp vào bờ biển Bạc Liêu. May mắn còn một ít tàu thoát được, qua những
đất nước tự do, làm ăn khắm khá, thương bạn đồng hành đi tìm tự do mà bất hạnh,
họ chung đậu tiền về dựng tượng đài Quan Âm Nam Hải cứu khổ cứu nạn độ siêu
linh hồn những người bị chết trên bước phiêu lưu tha phương cầu thực. Miền
duyên hải đất hoang bỗng trở thành linh địa, người ta tin có Quan Âm Nam Hải
chủ trì tầm thinh cứu khổ là cơ hội tốt cho các Thầy kinh doanh cất chùa trong
khu du lịch để thương mãi hương đăng.
NHÀ HÀNG NỔI
Điểm du lịch nầy phong cảnh vắng vẻ
mà rất hữu tình, gợi cảm. Một chiếc cầu bắt ra rất xa trên biển, có quầy hàng
ăn uống. Nhà hàng nằm ngoài khơi không được cây làng che chắn sức huy hiếp của
gió, giông to thổi phai sắc màu quyến rủ. Triều cường nhà hàng có vẻ uy nghi
quí phái, khi triều xuống thấp sát, nhà hàng như anh chàng cao cẳng lều khều, mặc
sà lỏn đứng đội cái mâm trên đầu. Gió như giông to làm ù tai, lất phất vạt áo.
Nhìn ra khơi, rải rát những chiếc tàu hì hục với con sóng bạc đầu, lúc ngoi lên
cao, khi vùi xuống nước.
Ở chơi không lâu thì đã phát lạnh,
chúng tôi kêu nhau chụp chung vài bôi hình làm kỹ niệm. Xong là rút nhanh.
NHÀ ÔNG KÝ GIỎI
Xe đỗ trước đường nhà Công Tử Bạc
Liêu, chúng tôi vừa xuống xe chưa kịp đi thì một người đàn ông trẻ bán vé số
trên đường dừng lại nói với chúng tôi: Các cô chú định vào tham quan khu nhà
Công Tử phải không? Đây đâu có gì xứng đáng để cô chú quan tâm, cái chỗ ăn chơi
sa đọa từ xưa giờ, chủ nhân dám đem tiền làm củi đốt nấu ăn đó không phải là
tấm gương cao quí cho quý cô chú noi theo. Hãy đi lại nhà Ông Ký Giỏi sẽ tốt
hơn.
Nghe anh ta nói, nhìn lại mình tôi
rất là mắc cỡ. Mọi người có mắc cỡ như tôi không thì tôi không biết nhưng họ
không một người vào nhà Công Tử Bạc Liêu, đồng ý đi hết về hướng nhà Ông Ký
Giỏi. Để xe trước đường nhà Công Tử Bạc Liêu cho bác tài nằm sướng mắt một chút,
chúng tôi rủ nhau đi có dọc, lượng qua lượng lại trên vài ba dãy phố đường tỉnh
Bạc Liêu mới đến nhà Ông Ký Giỏi. Trên đường có vài người đi sánh vai tôi mà
nói, tôi đã đi đôi ba lần qua đều chỉ đứng ngoài nhìn chứ không thể vào trong
khu nhà Ông Ký được, bởi nhà Ông ấy đã bị chính quyền tỉnh Bạc Liêu soán đạt
làm cơ sở nhà nước. Nghe thế, tôi dừng lại chuẩn bị chiếc máy ảnh lên đến độ nhạy cảm nhất, nếu
không vào được thì lanh tay lẹ mắt, ở ngoài đường đưa máy lên mà bấm nút. Tôi
đứng trước đường nhà Ông lòng ngậm ngùi thương nhớ Đức Thầy, liền cảm nhận có
sự ấm áp vì hơi hương của đấng giác ngộ như còn dư đọng đâu đây.
Tôi cho rằng ở xứ Bạc Liêu nầy, nhà
Ông Ký Giỏi là một chùm sao sáng có 3 điểm tựa rất đáng trân trọng:
1 Đức Thầy đang dùng trà tại nhà
Ông Ký Giỏi nhưng chữa cháy được một kho xăng xa trên phố chợ, Ngài hất bổng
một ly nước trà quí để biến thành một đám mưa to tưới tắt đám cháy kho xăng. Việc nầy không
phải Đức Thầy nói trước để tự hào về
mình mà là sự bẩm báo của người giúp
việc, Y có mặt tại hiện trường nên những gì Y nói đều là sự thật không thể
không tin. Ông Ký nghĩ thông hơn, khen thầm người vợ yêu quí của mình sớm hiểu,
đã chọn nơi chơn chánh, quy y đúng chỗ. Từ đó Ông phát tâm cung kính Đức Thầy
và tỏ dấu ăn năng vì những ý nghĩ bất kính với Đức Thầy khi Ngài hất bổng một
tách trà thơm, xin được quy y. Đức Thầy liền can Ông việc hối hả nầy.
2 Cũng tại nhà Ông Ký xảy ra một
cuộc tranh luận sôi nổi về khoa học và tâm linh. Ba người bạn của Ông Ký có học
vị nhà trường và địa vị trong xã hội, họ từ Sài Gòn đến muốn trao đổ với Đức
Thầy về những cáo báo của Ông Ký: Ông tư Hòa Hảo đã chữa cháy một kho xăng mà
trên hiện trường không có Ông ta, ngồi dùng trà ngay nhà tôi, chỉ một ly trà
Ông mới nếm một chút thì đã hất bổng lên chữa lữa đằng xa kia. Đức Thầy biết
trước nhóm bạn Ông Ký ảnh hưởng nặng về tân học và họ đang đẩy mạnh phong trào
duy tân của họ. Dĩ nhiên họ thích trình bày về duy vật biện chứng nên Đức Thầy
mới đưa tỷ dụ về nguồn điện đèn với cái cong tắt điện để bật hay tắt khi mình
muốn. Đức Thầy không động vào cong tắt điện mà điện vẫn chạy hay tắt nguồn hoàn
toàn trước mắt các Ông để các Ông tin lời báo cáo của Ông ký là đúng. Đức Thầy
dầu không ở hiện trường của đám cháy mà vẫn chữa được đám cháy giống như cái
công tắt điện Đức Thầy không sờ vào mà vẫn bật tắt được nguồn điện đó thôi.
Trước sự thật nầy các nhà tân học bạn Ông Ký như muốn choáng voáng mày mặt.
Những tưởng duy vật biện chứng là đỉnh cao của nhận thức đúng đắn và khách
quan, nay bị Thầy Tư Hòa Hảo làm cho não trạng khoa học của mình bị tê liệt, thua
không giảy giụa để kiếm ăn vớt vác chút nào. Thầy tư Hòa Hảo đã thành tựu được
khoa gì mà hay chứ? Ngoài khoa học còn có khoa tâm linh phải không?
3
Bà Ký đã phát tâm theo Phật Giáo Hòa Hảo, không biết bà quy y với Đức
Thầy ở tại nhà nầy hay ở đâu khác và nguyên nhân nào bà lại tin Đức Thầy là bậc
siêu nhân cổ Phật lâm phàm trước hơn Ông? Lúc Đức Thầy ở nhà Ông Bà Ký để phải
chịu cảnh đi trình báo tại đồn cảnh sát “mỗi tháng bốn lần nhọc cẳng Ông”như
trong Sám Giảng Thi Văn đã nêu. Bà ký đối kính Đức Thầy thế nào không nghe nhắc
đến, chỉ nhắc rằng sau khi Đức Thầy vắng mặt những vì trước kia bà đối kính Đức
Thầy dầu nay Ngài xa cách bà vẫn làm việc cung kính sự vô vi với Ngài như lúc
Ngài chưa vắng mặt. Căn phòng dành cho Đức Thầy được luôn luôn bảo vệ tốt, Bà
Ký mỗi ngày vào phòng lau quét bụi mạn Nhện và mỗi chiều tối đến thì Bà quạt
Muỗi giăng mùng sáng lại cuống mùng xếp chiếu, bổn phận đối kính mãi mãi.
Tiếc vì hôm nay, ngôi nhà nguy nga
của Ông Bà Ký còn đó, muốn vào xem cho biết căn phòng mà Ông Bà dành cho Đức
Thầy có tầm ngưỡng mộ đến dường nào và có thể may mắn, cảm nhận hơi ấm của Đức
Thầy, sự thơm tho của Ông Bà ký đối với PGHH sẽ còn vương động đâu đây. Nhưng
người đâu lạ lại ở không cho chúng tôi vào. Người xưa đã khuất vắng nhưng con
cháu họ đáng lẽ phải được kế thừa, sao mà dễ rơi vào tay của chính quyền tỉnh
Bạc Liêu để họ thay tên nhà riêng thành cơ sở của nhà nước? Nhìn ngôi nhà có
biết bao kỹ niệm trong trái tim của người tín đồ PGHH mà đau lòng. Phụ thân tôi
kể, Ngày xưa, Khi hay tin Đức Thầy về Bạc Liêu, ở nhà Ông Ký Giỏi, tín đồ mọi
nơi hễ nhớ Thầy thì hướng tâm về đó mà cầu nguyện, có người rảnh rang đạp xe
hai ba ngày mới tới đó, Sợ Thầy không dám vào thăm, đi tới đi lui ngoài đường
chờ nhìn trộm Đức Thầy cũng sướng.
Trong bài TẠM NGƯNG LÝ LẼ Đức Thầy viết tại Bạc Liêu ngày
20 tháng 6 năm Tân Tỵ có bốn câu than về chuyện những bổn đạo đến thăm Đức Thầy
mà phải ở ngoài song cửa:
“Nghĩ cuộc đời lương tâm càng cố
gắng,
Lòng ta sao rối rắm cuộc tằm tơ.
Vì đâu nên nỗi hẫng hờ,
Với ngường tha thiết
đợi chờ ngoài song”.
Nhắc lại cái sự nghiệp đạo đức PGHH của Ông Bà ký Giỏi Người
tín đồ biết yêu kính Đức Thầy thì sự đối kính của Bà Ký Giỏi nhà nầy nên được
tôn là đại ân
nhân.
10/11/2013
Lê Minh Triết
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét