NIỀM TIN VỀ PHẦN VÔ
VI
Trước năm 1975 Ông Trần Minh Thiệu bấy giờ là trưởng ban phổ thông
giáo lý Phật Giáo Hòa Hảo quận Lấp Vò, tỉnh Sa Đéc, trong một đề tài thuyết
trình “ Tu Gấp” bằng đưa ra những yếu mục rất có cơ sở để thuyết phục những
đồng đạo tu hành lôi thôi sẽ tinh tấn hơn. Ông giải thích Tu Gấp tức là tu liền
theo, tu nhanh nhanh không hẹn mai hẹn mốt, không chờ xong việc nhà, không đổ
cho thử thách, thách thức. Đời người đang sống nhưng lúc nào cũng bị Lão, Bệnh,
Tử rược tới, nếu không tu gấp bệnh với tử nó rượt dính mà lúc đó không tu là
mất uổng một kiếp, đào thay trở lại thế gian, chịu khổ nữa.
Sau khi quảng diễn xong đề thuyết, Ông còn gợi cảm cho mỗi đồng
đạo biết rằng: người thật tâm tu niệm dù chưa đến lúc “mãn kiếp hồng trần sanh
Lạc Quốc, hưởng công Niệm Phật rất yên lành” (lời Đức Thầy), hiện tiền
sẽ được sự che chỡ của các ơn trên, tai qua nạn khỏi để họ sâu duyên với đạo,
hâm nóng đức tin về sự cứu độ, liền đó Ông đọc lời dạy của Đức Thầy để chứng
minh lý giải của Ông là đúng:
“ Ai mà tu tỉnh chuyên
cần,
Làm đường ngay thẳng có thần độ cho”.
Ông còn trích ngâm một đoạn Giảng của Đức Thầy trong Bài “Sa Đéc”
để nói lên một sự thật đau lòng của muôn vạn tín đồ đối với Đức Thầy qua trường
hợp bị quân Pháp bắt dời đi lòng vòng, từ làng Hòa Hảo đến Châu Đốc và Sa Đéc:
“Tiếng sấm sét bên tai
xốc xáo,
Cả muôn người ngơ ngáo
hỏi han.
Nay thân Thầy cũng đặng
bình an,
Khuyên bổn đạo đừng than lắm tiếng”.
Cũng trong bài Sa Đéc, Đức Thầy có kể lại câu chuyện của Sư Trần
Huyền Trang qua Đông Độ thỉnh kinh, trên đường đi gặp nhiều tai nạn có thể dẫn
đến chết người, nhưng nhờ chuyên trì Niệm lục tự Di Đà, Đức Phật cõi Tây Phương
cho thị giả của Ngài là Quán Thế Âm Bồ Tát luôn theo cứu khổ cứu nạn nên khó
khăn nào cũng sẽ vượt qua:
“Xưa Tam Tạng Tây Phương
quyết đáo,
Bị loài yêu làm bạo lắm
phen.
Đức từ bi phải lộ trắng
đen,
Lôi Âm Tự cũng đi đến
chốn.
Đi dọc đường yêu tinh
làm hỗn,
Thấy Đường Tăng thơm
thịt muốn ăn.
Nhờ môn đồ Bát Giái, Sa
Tăng,
Với Đại Thánh, Tề Thiên
cứu vớt.
Lòng sáu chữ nhớ không
có ngớt,
Thì nạn tai cũng thoát như không.”
Ông còn kể câu chuyện mà chính Ông xém chút nữa lọt vào “ trận
chết” đã được cứu thoát:
Năm 1973 chúng tôi 3 người 3 chiếc xe Hon Da ss67 cùng chỡ chánh
pháp Phật Giáo Hòa Hảo từ Nam ra Trung phần, mỗi xe chỡ một bao toàn là quyển
Sấm Giảng Thi văn Giáo Lý. Đêm đó chúng tôi nghỉ ở nội thành thành phố Nha
Trang, Trời chưa kịp sáng là gọi nhau tranh thủ lên đường đến tỉnh Phú Yên,
huyện Sông Cầu cho có dư chút thời giờ đặng nghỉ ngơi ( hồi nầy ở thành phố Nha Trang và huyện
Sông Cầu tỉnh Phú Yên đều có thành lập ban trị sự giáo hội PGHH hoạt động đạo
rất tích cực. Nhất là huyện Sông Cầu, có sự ủng hộ của thượng nghị sĩ Lê Phước
Sang đồng thời còn là viện trưởng của trường Đại Học Hòa Hảo ở tỉnh An Giang.
Bà con địa phương phát tâm theo đạo khá đông, đặc biệt trong đó có giới trẻ,
thấy cần gánh vác nhiều lợi ích cho đạo, giữ hạnh tu độc thân, mang hoài bảo
lớn, xa quê hương với những người thân vào vùng trung tâm học Phật của đạo Phật
Giáo Hòa Hảo xin hấp thụ tinh hoa mang về xứ như quý vị: Lê thị Thu, Anh Tám
Lân, chị Năm Thơ, Anh sáu Khỏi và nhiều vị khác…lời dẫn của người viết).
Ông Trần Minh Thiệu kể tiếp:
Trời chưa sáng chúng tôi ra tới ranh ngoại ô, bị chú Cảnh Sát chận
xe kêu xuất trình giấy căn cước. Chúng tôi móc bóp đưa ra, họ chụp lấy cả
ba tấm giấy, rọi đèn pin coi thì mỉm cười rồi cầm giấy đi tuốt. Chúng tôi xuống
xe đứng dịnh, quay tìm chú Cảnh Sát để hỏi gì sao lại chận xe, lấy giấy căn
cước. Ngó qua ngó lại không thấy, tôi dựng chưn chỏi buông xe ra đi tìm, thấy
mấy chú ngồi trong mái che trước quán, tôi vội vàng đến hỏi:
- Chận xe chúng tôi sao không kiểm soát cho người ta đi?
- Các anh chị chở gì mà bao bao to thế?
- Kinh Giảng Phật Giáo Hòa Hảo.
- Định chỡ đi đâu?
- Tới một ngôi chùa PGHH ở quận Sông Cầu
- Hỏi sơ thôi chứ còn làm việc thì chưa đến giờ. Các anh chị chịu
phiền ở chờ chút nữa.
Trở lại nơi chiếc xe dựng, chờ một chút, hai chút, ba chút, tôi
chịu hết nổi, gầm mặt mà đi đến chỗ mấy tên Cảnh Sát ngồi, tôi chưa kịp mở
miệng thì họ hỏi nhanh còn pha chút giễu:
- Gì nữa đây quý Ông Bà?
Nghe kêu sao mà kỳ kỳ! Chỉ có mình tôi mà họ kêu là “ quý” Ông Bà.
Sớm giờ kêu mình bằng anh chị, giễu như vậy còn chưa đả, mình có ba thằng cha
đàn ông sồn sồn, để tóc dài bới củ tỏi sau ót, họ biết mình là bậc mày râu mà
trửng giỡn cỡ đó, nước chọc thêm lên, kêu tới Ông Bà nữa chứ. Bây giờ tôi mới
biết cái cười của họ khi rọi đèn pin xem giấy căn cước chúng tôi là gì. Thiệt
quá đáng!
- Mấy chú làm ơn làm phước, chúng tôi còn phải đi đường xa. Nếu
nghi chúng tôi phạm pháp, chỡ đồ quốc cấm thì cứ xét giấy tờ đồ đạc, không phạm
thì cho người ta đi sớm, tội nghiệp mà.
Cỏ vẻ như bị quấy rầy phiền phức tên cảnh sát lấy giấy căn cước
chúng tôi quay mặt chỗ khác, nói giọng như đuổi:
- Tôi nói với Ông rồi, chưa tới giờ làm việc quý Ông chịu khó ở
chờ.
Tôi nghi: không lẽ mình đi trong lúc thành phố phát lệnh giới
nghiêm. Sáng thiệt mặt mà chưa thấy chiếc xe nào chạy ra ngoại thành. Vừa dứt
suy nghĩ, có vài chiếc xe lớn nhỏ ồ ạc đi qua, chú Cảnh Sát lại chỗ chúng tôi
kêu trả ba giấy căn cước rồi bảo chúng tôi đi đi. Tôi mừng và nói lời cám ơn
rồi lên xe chạy cuống gió chứ ở mà chậm chạp, họ nhớ lại, kêu mình cho khám xét
đồ đạc nữa thì lâu thêm.
Lên xe chạy hàng dọc để dễ kiểm soát nhau. Thoát sự phiền phức của
mấy người cảnh sát, dễ chịu quá. Nhớ lại lúc họ chận xe không cho đi thì
tôi mắc cười ênh: Thế nầy là chận chơi chán đả cho đi chứ có xét hỏi gì đâu.
Lúc tôi khó chịu đi tới đi lui, cảnh sát giả bộ lạnh lùng hỏi gắt “Gì nữa đây
quý Ông Bà”. Nghe câu hỏi tưởng là hắn ta giận lắm mà tôi thì cũng đang tức
ngực đến độ khó thở. Nhìn kỷ mặt hắn không có nét giận, giống như vừa cười phớt
qua, bổng nhiên tôi hết tức ngực. Vậy họ chọc mình sao? Suy nghĩ của tôi chưa
kịp lắng xuống thì phía trước không xa có tiếng gầm nổ rất lớn, dội lồng ngực.
Tôi xả tay ga và đạp thắng cho xe dừng lại, các xe cùng chiều đều dừng, nét mặt
ai cũng hiện đầy vẻ lo sợ. Nhìn vẻ lo sợ của họ tôi sanh nghi, nếu mình đi
trong trận đánh của Việt Cộng Quốc Gia, lỡ có lạc đạn…không, không… không thể
có lỡ trong lúc mình đem đi ấn tống giáo lý. Tôi kêu hai đồng đạo đi chung đứng
nghiêm nguyện vái: Nam Mô A Di Đà Phật, Nam Mô
Đại Từ Đại Bi Cứu Khổ Cứu Nạn Quan Thế Âm Bồ Tát. Một chút thôi thì có xe nhà
binh chạy tới với xe cứu thương nối đuôi. Thấy xe cứu thương chạy dính theo xe
nhà binh sau một tiếng nổ kinh hoàng tôi biết đã xảy ra chiến trận có đổ máu,
rồi các xe lần lần chạy, chúng tôi cũng phải đi thôi.
Ngang tới hiện trường mới biết, “mấy ông bên trong” ra đấp mô gài
mìn giết quân Quốc Gia mà có Ông lính quốc gia nào chết đâu, dân thường cả
thôi, một chiếc xe hơi chỡ khách đầu chúi xuống lề còn chổng cẳng lên trời. Bấy
giờ tôi mới biết ý nghĩa của mấy chú Cảnh Sát giữ xe chúng tôi lại là sao rồi.
Cám ơn Trời Đất, Nam Mô A Di Đà Phật, Nam Mô
Đại Từ Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát.
Nghe chuyện Ông Trần
Minh Thiệu kể, Ông thật đáng khen là người có hai điều may mắn đến cùng một
lúc. May mắn thứ nhứt là được thoát chết. Nếu không có Cảnh Sát Việt Nam Cộng
Hòa ra chận xe, Ông sấn tới trước hơn ai, ăn phải quả Mìn của “mấy Ông bên
trong” là banh xác. Thế mà Ông không biết cái tuồng Phật Trời sắp sẵn cứ bực
tức rậm rật lòng, trách Cảnh sát sao vô duyên vô cớ chận xe người ta lại mà
không khám xét vì vì. May mắn thứ hai là Ông đi hoạt động đạo sự ở thời Việt
Nam Cộng Hòa, có tự do tôn giáo, giảng đạo hay chỡ Kinh Giảng đem đâu thì cứ
chỡ, cứ đi, làng nước không ai làm khó. Gặp cái thời nầy mà hiên ngang cỡ đó
hả, chỡ ba bao đầy Sấm Giảng Thi Văn từ Nam Phần ra Trung Phần, bị chận còn kêu
Cảnh Sát xét nhanh nhanh đi hả, thì có mà vào tù sớm thôi.
04/6/2015
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét