Bàn
về bài “CÁCH CẦU NGUYỆN CHO NGƯỜI CHẾT”
Người tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo (PGHH) từ chỗ cúng
nguyện mỗi ngày hai thời trên ba ngôi thờ trong nhà, tiếp theo thì cúng nguyện
rất khắn khít với cầu nguyện. Hoàn cảnh đã đẩy đưa người tín đồ sinh hoạt tôn
giáo hiện nay sang qua giai đoạn cầu
nguyện rất thạnh hành.
Bài “Cách Cầu
Nguyện Cho Người Chết” có sẵn trong quyển Sám Giảng Thi văn Giáo lý nhưng trước
30/4/1975 do vì thiếu yêu cầu mà sự sinh hoạt rất là buồn tẻ. Ngày nay, Cầu
Nguyện Cho Người Chết được vãng sanh Tây Phương hay cầu an cho người đang lâm
trọng bịnh đã thành cao trào, có sức lôi cuống mạnh đến đổi những tín đồ chưa bước qua
ngưỡng cửa tu tại gia thì đã đi tu qua nhà người khác.
Từ cao trào rần rộ đó mà nội bộ phát sinh những ý kiến
bất đồng dẫn đến sự tranh chấp vô ý thức tại nơi cầu nguyện. Bởi vì trong khi
cầu nguyện một đàng đọc chữ “ Vái” và một đàng thay vì chữ Vái người ta đọc là
“ Nam
Mô”. Hai ý nghĩa hoàn toàn khác nhau. Chữ “ Vái” trong bài có ý nghĩa là một
tiếng “lệnh” kêu làm việc, còn “Nam
Mô” là ý nghĩa đi vào thực hành.
Kính mời đồng đạo cùng tôi dò đọc lại bài “CÁCH CẦU NGUYỆN CHO NGƯỜI CHẾT” tôi chép đúng theo nguyên
bản, yêu cầu đọc thấy chữ chứ không đọc theo thói quen thuộc lòng.
“CÁCH CẦU NGUYỆN CHO NGƯỜI CHẾT
Mỗi người đứng trước bàn Phật niệm “Nam
Mô Bổn Sư Thích ca Mâu Ni Phật” (ba lần) và “Nam
Mô A Di Đà Phật” (ba lần).
Vái “ Phật Tổ,
Phật Thầy nay mình thành tâm cầu nguyện cho tên….(tên người chết) nhờ ơn Đức Phật từ bi cứu độ vong linh được
thoát chốn mê đồ, vãng sanh miền Cực Lạc”. Trong lúc ở nhà hay trong lúc
đưa đám tang gì cũng vậy, nếu có tổ chức sắp hàng chấp tay niệm “Nam Mô Tây Phương Cực Lạc thế giới
tam thập lục vạn ức, nhứt thập nhứt vạn cữu thiên ngũ bá đồng danh đồng hiệu
đại từ đại bi tiếp dẫn vong linh A Di Đà Phật”. Nếu người chết là nhà sư
thì câu chót đọc “ tiếp dẫn đạo sư A Di
Đà Phật.”
Bài dẫn trên ta thấy có hai mặt chữ in nghiêng và in
đứng, phân biệt ra chữ in đứng là dạy cách, là tiếng lệnh, ví dụ: “ Mỗi người
đứng trước… (ba lần). Chữ in nghiêng là làm theo, thực hành, tức đọc lên những
chữ in nghiêng còn những chữ in đứng có ý nghĩa là lời hướng dẫn, tiếng lệnh
của Đức Thầy tín đồ chỉ làm theo chứ không cần đọc theo. Chữ “Vái” là chữ in
đứng không cần phải đọc chung trong bài cầu nguyện như những chữ: Mỗi người
đứng trước… ba lần, tên người chết…
Nhưng có một số ít người đọc chữ vái (in đứng) trong
bài cầu nguyện, nó không có ý nghĩa gì hết trong việc cầu vãng sanh Tịnh Độ cho
tha nhân. Đức Thầy kêu tín đồ vái nguyện gì đó lên Phật Tổ, Phật Thầy chứ không
phải kêu đọc lên chữ Vái cho Phật Tổ Phật Thầy nghe (kêu khấn vái chứ không phải kêu đọc lên chữ
vái).
Ví như Ông cha nọ kêu đứa con nhỏ lại mà sai “ Mầy kêu
chú Bảy lại cho cha có chút chuyện”.
Nhỏ đi đến gặp chú Bảy nó nói làm sao? Nói y theo lời cha nhỏ dạy: Mầy kêu chú bảy lại cho cha có chút chuyện”
hay nhỏ phải nói bằng lời của nhỏ: Thưa chú bảy cha của con cho mời chú đến có
chút chuyện. Hai câu trên câu nào đúng câu nào sai?
Những vị đọc chữ VÁI bảo thủ mình là người “làm theo
lời chỉ” đọc đúng hết nguyên văn. Tại
không biết cộng thêm cái bệnh cố chấp mà nói vậy thôi chứ đọc đúng hết gì chứ! Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật (ba lần)
Nam Mô A Di Đà Phật (ba lần) trong khi nguyện vái những vị nầy đọc y
chữ (ba lần) hay niệm ba lần liên tục câu Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. Họ cũng
niệm ba lần liên tục câu Nam Mô A Di Đà
Phật, vì họ cũng biết chữ (ba lần) in đứng là lời hướng dẫn thì chữ VÁI
cũng in đứng trước chữ Phật Tổ, Phật Thầy in nghiêng, là lời hưỡng dẫn nữa
thôi.
Cũng trong bài “ Cách cầu nguyện cho người chết”đoạn
đầu đề là: “Mỗi người đứng trước bàn Phật niệm” hỏi sao ta không đọc câu đó?
Còn nữa, “trong lúc ở nhà hay trong lúc đưa đám tang gì cũng vậy nếu có tổ chức
sắp hàng chấp tay niệm” ta đâu có đọc. Vậy nói đọc đúng hết có phải mang thêm
tội vọng ngữ không?
Còn nhớ khoảng 5 năm trước, tôi đi dự một đám cầu
nguyện xứ xa, người lạ nhưng trong đám cũng có đôi người biết tôi và họ yêu cầu
tôi làm xướng ngôn cúng nguyện tập thể. Tôi từ chối mãi không được đành phải
nhận trách nhiệm điều hành cuộc cầu nguyện. Nguyên nhân khiến tôi từ chối là vì
sợ có sự bất đồng sanh phiền phức không
đáng trong giữa hai chữ VÁI và NAM
MÔ. Cầu nguyện xong, chiếc áo cúng cổi ra chưa hết tay thì bị một người hỏi sao
tôi đọc bỏ chữ VÁI. Tôi đang cởi lễ phục ra và cũng thờ ơ cho chậm một chút để
lựa câu trả lời không đụng chạm thì từ phía sau lưng tôi có một đồng đạo chưa
quen đã lên tiếng trả lời giùm bằng kể qua câu chuyện:
Tôi là Hòa Hảo từ trong bụng mẹ Hòa Hảo ra mà hồi còn
nhỏ có chịu tu đâu, đợi tới vợ con đùm đề một hôm tôi rủ bà xã cùng phát tâm
tu, bà xã đồng ý. Hai đứa học quyết liệt bài cúng nguyện hơn hai ngày là thuộc
làu lòng, đọc rót rót. Lúc mới phát tâm, tới chừng cúng lệ thì tôi với bà đồng
hành. Nguyện thầm nhưng hai bài đọc ở bàn thờ cửu huyền thì quỳ xuống đứng lên,
lạy, ăn rập, đến cúng nguyện ở bàn Thờ Phật luôn luôn bà ấy đứng dậy trước hơn
tôi. Sau mấy bửa cúng như vậy, tôi hỏi bà xã:
Bà đọc cái kiểu gì tôi đọc theo không kịp? Bà ấy đáp: Đọc
y trong bài chứ có bỏ chữ nào đâu. Tôi
nói: Y làm sao bà đọc tôi nghe thử? Bà liền đọc: Nam Mô Ta bà Giáo Chủ Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni
Phật ba lần. Tôi hỏi: Vậy bà đọc chữ (ba lần) thay vì phải niệm đủ ba lần
cái câu Nam Mô Ta bà Giáo Chủ Bổn Sư Thích
ca Mâu Ni Phật sao? Bà ấy đáp: Dà phải, Đức Thầy dạy đọc sao tôi đọc vậy,
có sai đâu.
Vị đồng đạo trách tôi đọc bỏ chữ nghe mới chừng nầy
câu chuyện thì lại rút êm.
Tiếng “Nam
Mô” đọc trước tiếng chữ “Phật Tổ, Phật Thầy…” là không có trong nguyên bản của
bài cầu nguyện nhưng chúng sanh thì có cái bệnh Kính Phật nên phần đông tự đặt
chữ Nam Mô khởi đầu vì Nam Mô có nghĩa là cung kính. Với lại nếu đem so sánh,
Đức Thầy dạy niệm Nam Mô trước danh hiệu hai vị Phật Thích Ca Phật A Di Đà thì
đối trước với Phật Tổ, Phật Thầy mà đặt ở đấy hai tiếng Nam Mô xét không rườm cũng không lệch
lạc ý nghĩa. Viết bài “Cho Ông Cò Tàu Hảo” Đức Thầy đề “ Cung kính Phật, cung
kính Pháp, cung kính Tăng”giống như Nam Mô Phật, Nam Mô Pháp, Nam Mô Tăng.
Có người hỏi tôi:
Dám nói thêm bớt chữ trong Sám Giảng Thi Văn Giáo Lý
của Đức Thầy, chú không sợ tội sao?
Tôi đáp:
Có gì đâu mà gọi là thêm bớt chứ?
Chỗ không có chữ Nam Mô thì chú lại thêm vô cho có
trong khi chữ “vái” là có thì chú lại bỏ, không phải thêm bớt chứ là gì?
Nghe hỏi thì tôi biết huynh đệ mình đọc chữ vái. Vái
sao đâu huynh đệ đọc cho tôi lãnh hội.
Thì “vái Phật Tổ, Phật Thầy nay con thành tâm cầu
nguyện…”
Thôi dừng lại đi! Nếu nói đọc đúng theo bài “ Cách Cầu
Nguyện Cho Người Chết”thì đoạn huynh đệ vừa đọc là không có chữ “con”, huynh đệ
bỏ chữ “mình” nguyên bản để thay vào đó chữ con, thì ra huynh đệ cũng thêm bớt
nữa thôi!
Nếu vậy tôi đọc chữ “mình” thì sao?
Nói chuyện với nhau mà dùng tiếng “mình” là tỏ thái độ
bạn bè, ngang hàng, cùng phe nhóm, ví dụ bạn bè rủ nhau: Hôm nay mình đi ăn,
ngày mai mình đi du lịch hay chúng mình đi chùa. Đàng này chúng ta không thể
sánh bạn bè ngang hàng hay cùng phe nhóm với Đức Phật vì chúng ta cầu khẩn Các
Ngài. Chỗ ta đứng là dưới thấp, còn các Ngài đang ngự trên cao, đâu có chỗ để
ta xưng hô “mình” với ác Ngài được.
Huynh Đệ! Đức Thầy sáng tác Sám Giảng Thi văn khuyên
tu có rất nhiều bài nhưng chỉ có bài “cách cầu nguyện cho người chết”mà trong
tín đồ xảy ra lắm chuyện ồn ào. Những bài thuộc phạm vi cầu khẩn lễ bái gồm có:
Bài Nguyện Trước bàn Thờ Ông bà, Bài Nguyện Trước Bàn Thờ Phật, Bàn Thông Thiên
và bài Cách cầu nguyện cho người chết, nhưng chỉ có bài Cách cầu Nguyện Cho Người Chết phát sinh kiến giải bất đồng. Ta nên hiểu “Bài
Nguyện” và “Cách Cầu Nguyện” là hai ý
nghĩ khác nhau. Bài nguyện tức là văn nguyện đã có sẵn, học y theo
đó mà nguyện. Cách Cầu Nguyện là dạy cho cách thức cầu nguyện không hoàn toàn
theo văn nguyện có sẵn. Như Huynh đệ đọc thấy những dòng chữ : “mỗi người đứng
trước bàn Phật niệm, (ba lần) vái, tên người chết, trong lúc ở nhà hay trong
lúc đưa đám tang gì cũng vậy, nếu có tổ chức sắp hàng chấp tay niệm…”, những
câu chữ tôi trích trong bài Cách cầu nguyện cho người chết, chúng ta đâu có ai
đọc lên câu chữ đó, vậy tội với Đức Thầy sao?
4/8/2015
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét