NGHI VẤN 1
BUỔI HỌC 6
NHÓM HỌC GIÁO LÝ PGHH
Sau khi chú giảng xong bài “Luận
Về Tam Nghiệp”, đồng đạo học viên đưa ra một số nghi vấn; không phải
nghi vấn đơn thuần, vắn tắc mà những câu hỏi cộng thêm lý luận dài
dòng. Tôi tóm lược ý chính:
Hỏi: Đức Thầy viết bài Luận Về
Tam nghiệp với hướng dẫn trong ba nghiệp chướng sanh ra mười điều ác.
Ngài dạy trừ ác để hiện thiện ngay trong phần giáo lý nầy. Nhưng ở
đoạn khác thì Ngài lại viết “ Niệm chữ Di Đà tan chướng nghiệp. Xin
hỏi hai điều dẫn trên có trái chống nhau không?
Đáp: Nếu đọc suôn qua thì thấy hai
đoạn dẫn chứng trên là có trái chống, nhưng qua nghiên cứu thì không.
Bởi đây quá rõ ràng là hai phương pháp trừ ác tồn thiện. Phật Pháp
là phương tiện pháp, chúng sanh đa bệnh còn nói về giác ngộ theo đường
Phật thì cao thấp không đều, bảo sao không có nhiều cách tu để cung
ứng lòng hâm mộ của bá gia thiện tín. Ai sanh ra đời có đạo hay không
có đạo, Đạo Phật hay Đạo Thánh, Đạo Tiên đều phải bị ba chướng
nghiệp hoành hành, nên Đức Thầy bảo“Dầu muốn hay dầu không cũng phải
chịu dưới sự chi phối của định luật thiên nhiên” là thế.
Để ba nghiệp chướng không hoành
hành nữa, Đức Thầy phải “ tùy trình độ cơ cảm của tín nữ thiện
nam” mà có nhiều cách giáo hóa chúng sanh, để họ tùy trình độ cơ
cảm chọn lấy pháp môn nào phù hợp cho sự diệt ác hành thiện.
Đối với người có đạo, biết tu
nhưng đạo đức và sự tu không nhiều, hằng ngày phải đối mặt không
biết bao nhiêu là chuyện: mưu sinh, ăn mặc, ở, nặng nhẹ thế nào… Trong
khi đối mặt với cuộc sống, ba nghiệp chướng sanh ra mười điều ác ta đâu
cần để ý đến nó vì thế nó chạy luôn tuồng lên các việc làm chờ
có cơ hội là nhập vào thân, nhập vào khẩu, nhập vào ý cho mình
chồng đống những tội lỗi. Đức Phật đưa ra tên tuổi mặt mày của mười
tên ác để bá gia thiện tín trong làm lụng mưu sinh luôn nhớ có ba
nghiệp chướng theo, đừng cho chúng nhảy vào, 1 không tạo thuận lợi cho
nó tác oai tác quái, 2, khi biết nó đã và đang phát sinh, bằng mọi
cách phải chận đứng và liền theo đó loại bỏ nó ra khỏi hành động
(thân nghiệp) ngôn ngữ (khẩu nghiệp) và tư tưởng (ý nghiệp), sẽ tránh
đi cái nhân quả đời nầy và không làm ảnh hưởng kiếp lai sinh. Đời
hiện tại không bị người khác hành động ác, không bị người khác nói
ác và không bị người khác nghĩ ác về mình. Nhờ đó sống đời hạnh
phúc, bình an ngay trên cõi Ta bà ô trược nầy.
Diệt thập ác bằng Niệm Phật. Theo
Đức Thầy dạy “Niệm Phật là để trừ vọng niệm chúng sanh” đó là mục
tiêu. Người chuyên trì Niệm Phật không để niệm ma lọt vào là hành
đúng pháp. Đức Thầy giải thích qua cách niệm Phật “ vì trong tâm của
chúng sanh niệm niệm mê lầm chẳng dứt”. Niệm niệm mê lầm tức là
tiếp tục hết cái mê lầm thì đến mê lầm khác, mê lầm mê lầm mê lầm…
Nếu trong tâm nối liền mê lầm như vậy thì đâu thể chỉ một câu niệm
Phật làm xụp đổ hết các sự mê lầm đã và đang tiếp diễn, chỉ phải
niệm Phật niệm Phật niệm Phật nối nhau không có khoảng cách cho niệm
ác chen vào. Như vậy, chỉ niệm Phật là trừ được niệm ác. Nhưng hềm
gì, chúng sanh tu niệm chưa thuần, niệm ác còn xen; niệm Phật suôn như
vậy chưa đủ nên Đức Thầy dạy “ Cần phải tu thập thiện thì sự niệm
Phật mới có hiệu quả”.
Niệm Phật Bản Lai. Phật bản lai
là Phật của chính mình. Kính thưa chư đồng đạo cách niệm Phật trước
là dựa vào Đức Phật ngoài mình, Đức Phật cõi Tây Phương để trừ
niệm ác nghiệp vọng niệm. Phương pháp thứ ba nầy tuyệt diệu. Đức
Phật dạy rằng “Nhất thiết chúng sanh giai hửu Phật Tánh” trong mỗi
chúng sanh đều có tánh Phật như Đức Phật có và thành Phật như Đức
Phật thành.
Giả sử hỏi: Đã có Phật trong
chính mình sao còn “ chờ thành” nữa?
Cũng như lúc còn là thái tử Sĩ
Đạt Ta, trốn lên Tuyết Sơn tu hành, Phật có trong tâm mà chưa dùng
được để bị lăn lóc với những cơn khổ hạnh như muốn chết đi, có Phật
Tánh đồng thời còn có vô minh che lấp khiến Phật Tánh không hiện
diện, nhờ công năng tu tập phát sinh trí huệ vẹt phá được vô minh thì
Phật trong chính mình tỏ rõ ngời sáng.
Vô minh tuy không thật thể nhưng nó
che chắn, nếu không phá được nó, cho dù tu đến bao lâu ngày bao nhiêu
kiếp mà không vẹt sự che chắn của rừng vô minh là chưa vào Phật quả.
Còn trong màn vô minh mà ít tu thì lòng sẽ không mấy tỉnh táo trước
những thứ cám dỗ thấp hèn, dễ đọa lạc vào đường tội lỗi, gây
thành nghiệp ác.
Như mặt Trời bị áng mây che; mây
cũng không thực thể nhưng nếu không có gió đẩy đi mây sẽ ở mãi ngự
trị sự che chắn mặt Trời thì ánh sáng mặt Trời không thể phát quang
được, sẽ đổi màn, chỗ sáng sẽ trở thành bống tối. Nếu người tu áp
dụng pháp môn Niệm Phật, tu tâm không cho có kẻ hở thì ba nghiệp chướng
sanh mười điều ác không còn chỗ để phát sanh. Gió đẩy thì mây bay
mất, mặt Trời hiện sáng. Niệm Phật trì tâm không có kẻ hở ví là
gió liên tục mây vô minh không có sức bám trụ cho ba nghiệp chướng hoành
hành. Nên Đức Thầy dạy “ Niệm chữ Di Đà tan chướng nghiệp” là thế.
Bàn xét như trên ta thấy rằng sự
giải trừ ba nghiệp chướng để chúng không sanh mười điều ác, tóm lại
có hai cách:
Dùng Pháp trị
Dùng Phật trị.
Thế nào là Pháp trị? Dùng pháp
lành trị pháp dữ, ví dụ: Đem cái thiện phóng sanh để trị cái ác
sát sanh, dùng thiện bố thí để trị cái ác trộm cướp, dùng chánh
tâm để trị tà dâm. Để lòng thương yêu hòa khí với mọi người đặng
trị cái bệnh lưỡng thiệt, (đi tới đâu mà đem sự mất lòng cho nhau
giữa họ là do mình khởi đầu câu chuyện với những từ mà quê ta
thường dùng “Đâm bì thóc, thọc bị gạo” rốt cuộc bì nào cũng bị
lưỡng thiệt đâm thọc nên họ mới bất hòa càng lúc càng nặng). Dùng
lời nhỏ nhẹ trong bàn luận, thuyết phục, hay sai bảo để trị cái
bệnh Ỷ Ngôn, dùng cam ngôn mỹ từ để trị cái bệnh Ác Khẩu .vv…
Thế nào gọi là dùng Phật trị?
Nhiếp tâm Niệm Phật đủ để trừ
tiêu các chướng nghiệp nhiều đời không cần phải qua pháp trị.
21/12/2015
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét