ĐÃ HIỆN ĐIỀM LÀNH
Ông thẻ số 4 xuất hiện quang minh chánh đại tôi nghĩ là một điềm lành,
vì đầy đủ 4 ông thẻ như 4 tướng giữ thành đông, tây, nam, bắc. Đông Phương Nam Đế, ông thẻ số 1 ở làng Vĩnh Hanh; Bắc Phương Hắc Đế, ông thẻ số 2 ở làng
Vĩnh Thạnh
Trung; Tây Phương Bạch Đế, ông thẻ số 3 ở làng
Vĩnh Tế Bài Bài; Nam Phương Xích Đế, ông thẻ số 4 ở làng
Vĩnh Điều.
Bốn làng nói
trên, tính theo xưa gồm có 3 tỉnh: An-Giang có ông thẻ số 1 làng Vĩnh
Hanh; Châu-Đốc có hai ông thẻ, một ở làng Vĩnh Thạnh Trung trong đồng
sau chợ Cái Dầu ông thẻ số 2, một nữa làng Vĩnh Tế, Bài Bài ông
thẻ số 3; Kiên-Giang, làng Vĩnh Điều ông thẻ số 4. Tuy cách xa, khác tỉnh, đều mang một họ
“Vĩnh”, nghĩ mới lạ !
Trước
khi nói về ông thẻ, chúng ta nên
tìm hiểu
nguyên nhân nào có bốn ông thẻ để thấy
trách nhiệm của mỗi ông thẻ là gì.
Thật ra là cây thẻ thôi nhưng vì có lệnh của Đức Phật Thầy và công cán của Đức Cố Trần
Văn Thành mà người đời tôn kính gọi vinh danh là ông thẻ và người ta cũng cảm nhận có sự linh thiêng
trong mỗi
cây thẻ, sự vinh danh như vậy là
không quá đáng.
Do những cái ếm nên mới có ông thẻ để phá ếm. Theo sách “Thất Sơn Mầu Nhiệm”, cái ếm ấy đầu tiên do
ông Phạm
Thế Chung (đạo Lập) đệ tử của Đức Phật Thầy
Tây An khám phá ra ở Bài Bài, làng Nhơn Hưng, quận Tịnh Biên, tỉnh Châu Đốc. Đức Phật Thầy lập
trận đồ phá ếm bằng chọn loại danh mộc có tên là cây Lào Táo làm thẻ, trên những cây thẻ đều có khắc bốn chữ Bửu Sơn Kỳ Hương và trên mỗi đầu cây
thẻ có cho trổ búp sen,
quấn vải
đỏ ngang cổ, song sai Đức Cố Quản Trần văn Thành vác đi cắm 4 thẻ ở những vùng nào vùng nào
do Ngài chỉ định, để gở ếm độc, làm mất sự linh thiêng
của ếm. Bởi những lý do kể trên mà cây thẻ rất xứng
đáng cho người đời gọi tôn danh là ông thẻ.
Chúng ta coi như tạm xong phần ếm và
cách gở
ếm, còn muốn tìm hiểu nguyên căn những kẻ ếm độc hại là ai chúng ta hãy nghe sự trình bày của quyển
“Thất Sơn
Mầu Nhiệm” sau đây:
“Căn-cứ vào những chữ còn sót lại trên mặt cái ếm nầy mà xét (vì
tấm đá đã bị mòn chữ đi nhiều) Hoàng-Thanh, Càn-Long ngũ thất niên, trọng thu, cốc-đán
thì biết
được cái ếm nầy chôn vào mùa thu, tháng 8, năm Càn-Long nhà Thanh thứ 57 tức lả năm 1792
dương lịch. Lúc nầy chính là lúc con cháu của Mạc-Cửu còn trọng-nhậm tại Hà-Tiên
(Mạc-Tử-Sanh,
Mạc-Tử-Thiêm). Trừ bọn họ ra, vùng nầy thuở đó không
còn có đám người Minh-Hương nào khác nữa. Như thế, ta có thể nói là cái ếm nầy của bọn họ Mạc,
với con mắt của nhà địa-lý, hoặc vì thấy vượng khí của vùng sơn lãnh
linh thiêng, hoặc bởi biết có long huyệt, sợ đất Việt sẽ phát sinh Thánh Chúa sau nầy nên họ đã ếm trấn ngay từ sau khi
cuộc Nam tiến của nước ta được hoàn
thành”.
Vùng Thất-Sơn Trời cho quy tụ địa linh nhân
kiệt, các nhà địa lý của Tàu qua Việt Nam
thời họ Mạc, cố làm cho vùng đất linh không còn linh,
nhân không kiệt. Nhờ cách làm phép hóa giải của Đức Phật Thầy mà ếm hết tác dụng độc hại, vùng Thất Sơn vẫn còn là
nơi linh thiêng, tiếp tục xuất hiện nhiều đấng cứu thế: Sau Đức Phật Thầy Tây An có Đức Phật Trùm,
Đức Bổn
Sư, Sư Vãi Bán Khoai và Đức Huỳnh Giáo Chủ, là những
kiệt nhân tài cao đức trọng, cứu nước cứu dân, dẫn dắt quần sanh tầm
cầu chơn lý. Theo như Sám Giảng Thi Văn giáo lý PGHH thì miền bảy núi là nơi chứa dựa các
ngọc đài lầu như những câu
sau đây:
“Trên năm non rồng phụng tốt tươi,
Miền bảy núi mà sau
báu quí.
·
Rừng lâm cây đá thấy ngày nay
Mà ruột năm non có các đài.
·
Thất sơn lộ vẻ đài
lầu
Chừng ni mới thấy nhiệm mầu của ta.
Lầu đài núi Cấm lộ nay mai ”
Quanh vùng Thất Sơn có nhiều điểm di tích lịch sử với những chuyện xưa tích cũ, cũng là điểm hành hương chiêm bái bậc nhất trong miền Tây Nam
nước Việt.
Người có lòng tín ngưỡng cơ huyền được ơn trên gia hộ tốt cho bản thân, gia đình và bá tánh, họ rất tin tưởng ở miền địa linh nầy có thể chảy gở những rối ren của cuộc đời, nghèo khổ và bệnh tật. Theo ông Vương Kim tác giả của quyển sách nhan đề “Đời Thượng Nguơn” thì có hết thảy là 4 cây
thẻ:
“Bốn ông thẻ là những tấm bảng bằng gỗ mà Đức Phật Thầy Tây
An sai Đức
Cố Quản đem cắm bốn phía núi Cấm để làm giới hạn cho môn
nhơn đệ tử
không được ở trong vòng cấm địa ấy. Do đó
mà Thiên Cẩm Sơn có tên là núi Cấm, nghĩa là cấm tín đồ BSKH không được ở trong vòng
đá chày ấy”.
Tiếng đồn là 4 ông thẻ nhưng từ
xa xưa nhân dân chỉ thấy 3 ông
thẻ có nhà thờ hẳng hoi như Đông Phương Thanh Đế, ông thẻ số 1 ở làng Vĩnh Hanh; Bắc Phương Hắc Đế, ông thẻ số 2 ở làng
Vĩnh Thạnh
Trung; Tây Phương Bạch Đế, ông thẻ số 3 ở làng
Vĩnh Tế, Bài Bài, còn ông thẻ số 4 Nam Phương Xích Đế ở làng Vĩnh Điều chưa có nhà thờ, người ta ít
ai biết,
trải đến 2017 mới xây cất được là sao?
Tôi nghĩ mọi chuyện về ông thẻ là do thiên cơ
sắp đặt đâu đó sẵn, đến ngày
tháng năm nào thiên cơ cho hiện ra là hiện, ta muốn trước hơn không thể. Có người bảo rằng, đáng
lý ông thẻ
số 4 phải được xây cất hồi thời Việt Nam
Cộng Hòa, thuở có tự do mà đối
với BSKH, PGHH hai tôn giáo đi trong lòng dân tộc rất được quần chúng,
chánh quyền ủng hộ. Nhưng có người bàn rằng: ông thẻ số 4 ở nơi hoàn toàn hoang vẳng, nằm trọn trong vùng kiểm soát của Việt Cộng, Đức Cố là tướng Việt chống Pháp,
bên cạnh đó lại là đệ tử của Đức Phật Thầy
Tây An mà BSKH, Phật Thầy Tây An với PGHH, Đức Huỳnh Giáo Chủ chỉ là cái tiền thân hậu thân mà thôi,
như Sám Giảng quyển nhì “Kệ Dân Của Người Khùng
cho biết:
“Lời
của người di tịch núi Sam,
Chớ
chẳng phải bày điều huyễn hoặc.
Cảnh
Thiên Trước thơm tho nồng nặc,
Chẳng
ở yên còn xuống hồng trần.
Ấy vì thương trăm họ vạn dân,
Nên chẳng kể tấm thân lao khổ.”
Đức Cố là đệ tử Phật Thầy Tây
An, thành lập cơ sở cúng bái, những vì có liên quan đến Đức Cố hoàn toàn mang hình thức tôn giáo và lại gần gủi như
một nhà với PGHH là điều cấm kỵ với Việt Cộng, người ta tính không thể cất yên
được nên không cất, điều nầy không phải không có lý.
Chí như thời kỳ nhà nước xã hội chủ nghĩa lên quyền, đồng đạo ta quá
nhiều gian
nan trong vấn đề xin phép. Điển hình những năm gần đây
khi ông Nguyễn Tấn Dũng còn là thủ tướng chánh phủ nhà nước xã hội chủ nghĩa, người ta biết gốc gác của ông ở tỉnh Kiên Giang, liền nhờ thân
nhân ông giới thiệu xin phép
cất đền
thờ ông thẻ số 4; có câu: quan nhứt thời dân vạn đại, mai mốt đây ông nghỉ hưu, có
dịp về nơi
chôn nhao cắt rún, viếng mộ tổ tiên
ông bà nằm
xuống, thấy bà con có đạo đi cúng viếng đền thờ vị anh hùng
dân tộc mà đền thờ ấy do mình
ký phép xây cất là vinh hạnh biết chừng nào. Nhưng ông nhứt định không ký, để khi ông
mất quyền
thủ tướng, Nguyễn Xuân Phúc lên thay,
Ông Phúc không phải là người sanh trưởng ở tỉnh Kiên Giang nhưng đã làm giúp cho tín đồ Đạo BSKH, PGHH tỉnh Kiên
Giang, và cả cái miền Tây nầy thêm được ngôi thờ tôn nghiêm người có công với đạo và
đời.
Nói như thế, không phải để khen đương kim thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc quí đạo, thương đồng bào có đạo BSKH- PGHH mà cho phép thành lập đền thờ. Tất cả đều
do thiên cơ sắp đặt, đến lúc phải như vậy là như
vậy, muốn
khác hơn nữa không được.
Tuồng hát có 4 diễn viên,
lâu nay đã xuất hiện trên sân khấu chỉ có 3 diễn viên với thời gian kéo dài, khán giả trông hoài trông hoài trên sân khấu xuất hiện một vai diễn thứ
tư nữa là xong, kết thúc vở tuồng. Mườn tượng như điều dẫn trên, đền thờ ông thẻ số 4 xuất hiện như
một vai diễn cuối cùng với danh chánh ngôn thuận là điềm lành báo trước, chuyện quốc gia dân tộc và tín ngưỡng tôn giáo sẽ được phục hưng sáng tỏ theo “tuồng xưa kia sắp đặt đã
lâu” mà Đức
Thầy đã báo trước.
Xưa Đức Thầy thuyết Pháp trong chuyến đi khuyến nông thường hay nhắc nhỡ với bổn đạo của Ngài
là Ngài sẽ
xa vắng các người và sẽ trở về với nguyên
hình trạng
cũ. Bảy mươi năm xa cách thời gian không phải là ít, tôi tin
tưởng đã đến lúc ứng hiện điềm lành báo trước, Đức Thầy sắp trở lại. Hỏi trong đạo ai mà không nhớ câu:
“ Ít lâu ta cũng trở trở về,
Khuyên cùng bổn đạo chớ hề lãng xao”.
Và câu:
“Chừng nào Thầy lại gia trung,
Thì trong bổn đạo bống tùng
phủ che”.
Những câu trích dẫn trên
trong bài “Dặn Dò Bổn Đạo”, Đức Thầy sáng tác để báo trước sự xa cách xảy ra, từ ngày 12
tháng 4 Canh Thìn 1940 Pháp buộc Đức Thầy từ đây
phải sống
lưu cư, cho đến khi Nhựt đảo chính Pháp ngày 10 tháng 3 dương lịch 1945 Đức Thầy viết
bài Lời nói đầu cho quyển thứ 6 có
đoạn văn
như sau:
“Năm năm
trường xa
cách, cái chánh-sách áp-bức tôn-giáo gắt-gao của người Pháp làm cho tôi không được gần-gủi các
người hầu
giải-bày tường-tận tôn-chỉ hành đạo của tôi.”
Như vậy,
“Ít lâu ta cũng trở về” trong bài “Dặn Dò Bổn Đạo” đã có rồi, còn sự vắng mặt không nói trong Sám Giảng giáo lý, chỉ nói
chung trên diễn đàn trong cuộc đi khuyến nông và một ít cá
nhân tâm phúc như ông Biện Đài chẳng hạng: Ngài sẽ có thời gian xa cách tín đồ và khi
trở về sẽ
giữ nguyên hình trạng cũ là chưa đến. Bốn tướng giữ bốn cửa núi Cấm xuất hiện đầy đũ, chuẩn bị, ngày Đức Thầy trở lại là
không còn xa nữa đâu.
14/4/2017
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét