Thứ Tư, 14 tháng 10, 2015

NHÓM HỌC GIÁO LÝ PHẬT GIÁO HÒA HẢO
BUỔI HỌC 2
NHỮNG ĐIỀU SƠ LƯỢC CẦN BIẾT CỦA KẺ TU HIỀN
Đây là quyển thứ sáu mà Đức Thầy đã viết hồi tháng 5 dl 1945 tại SàiGon

Xin chào chư quý đồng đạo! kỳ học hôm nay chúng ta bắt đầu tìm hiểu về ý nghĩa bài viết của Đức Thầy được mang tên “NHỮNG ĐIỀU SƠ LƯỢC CẦN BIẾT CỦA KẺ TU HIỀN”.
Bài viết dài, thể văn xuôi, có nhiều tiết mục mà mỗi tiết mục Đức Thầy đều dạy tận tường. Thời học của chúng ta có khoảng ba đến bốn giờ cho một ngày kỳ, không thể một lần mà học hết, nên tôi đề nghị hôm nay chúng ta chỉ học qua hai đề mục “ Xuất Gia” và “Tại Gia”.
PHẦN I: Chú Giải Tựa Đề:
NHỮNG ĐIỀU SƠ LƯỢC CẦN BIẾT CỦA KẺ TU HIỀN
Sơ Lược: Báo trước cách trình bày rút ngắn câu chuyện hay bài văn, đề thuyết; lược lại ý chính. Ví Dụ: Hôm qua tôi bận việc không đến Quang Minh Tự dự học kỳ, anh làm ơn kể Sơ lược lại buổi học ấy để tôi biết với.
Cần Biết: Nghĩa thông thường là điều quan trọng phải được bảo trì trong phạm vi “Kẻ tu hiền”. Xưa nay người ta đem dùng ở nhiều lĩnh vực. Ví dụ Tu pháp môn Tịnh Độ là Niệm Danh Hiệu Đức Phật Di Đà thì điều Cần Biết Niệm cách nào mới được vãng sanh Tịnh Độ. Ngoài ý nghĩa khai thông đạo đức, từ Cần Biết ở bài dạy của Đức Thầy còn là một tiếng lệnh mà tín đồ là người thừa lệnh.
Kẻ Tu Hiền: Kẻ là tiếng chỉ người nào đó, Tu Hiền là trau sửa thân tâm cho nhơn đức, chơn chánh; những vì giúp ích tiến trình tu là làm, không thì thôi. Ngoài những lẽ trên, “kẻ tu hiền” còn mang một ý nghĩa danh xưng chuyên môn, ví dụ: Ông ấy là kẻ tu hiền anh đừng đem chuyện đời mà đùa cợt tội nghiệp.
Tóm lược đại ý của chủ đề:
Vắn tắt, ai muốn tu hành đúng pháp, hãy học theo cách chỉ dẫn đầy đủ của phẩm giảng “Những Điều Sơ Lược Cần Biết Của Kẻ Tu Hiền” nầy như người muốn tìm đường hay tìm ai thì phải cần quan tâm cái địa chỉ, đi trên biển phải có bản đồ và kim chỉ nam; có đủ những cái “cần biết” thì đường tu không bị rắc rối, không vướn bận, hành giả sẽ đi sớm đến mục tiêu.
Kính thưa chư đồng đạo hiện diện! Vừa qua chúng ta học ý nghĩa của tựa đề, giờ đến phần nội dung chính nhá.
PHẦN II: Học và trả Chánh n
“Đạo Phật từ xưa đến nay luôn luôn phân làm hai hạng người:
1). Hạng xuất gia.
2). Hạng tại gia.
HẠNG XUẤT GIA: Gồm các nhà sư hay những ni cô đã hoàn toàn ly khai với gia đình, quê hương bè bạn, dựa thân vào cửa Thiền hoặc núi non am cốc, hằng ngày chỉ chuyên lo kinh kệ, săn sóc cảnh dà lam, trau luyện đức lành, giồi mài trí tuệ hầu giảng giải cho bá tánh thập phương nghe để quày đầu hướng thiện quy y Phật pháp, không còn thiết đến việc đời. Gia đình nhà cửa của nhà sư là cả thế gian, thân quyến nhà sư là khắp cả nhơn loại đại đồng.
Đó là hạng người dốc tu cho mau thành Phật quả, thoát kiếp luân hồi.
HẠNG TẠI GIA: Gồm tất cả đại chúng, tất cả thiện nam tín nữ chưa đủ điều kiện xuất gia, vì cảm thấy mình còn nặng nợ với non sông tổ quốc, với gia đình, với đồng bào xã hội nên chưa thể làm như các nhà sư hay ni cô đặng. Tuy vậy họ cũng sẵn sàng hoan nghinh ca tụng lý tưởng từ bi bác ái đại đồng của nhà Phật và luật nhân quả do Phật thuyết ra. Thế nên ở tại nhà, họ phượng thờ Đức Phật, phát nguyện quy y, giữ gìn ít điều giới luật, hằng coi kinh sách, sửa tánh, răn lòng, ủng hộ các sư. Như thế họ cũng lần lần lên con đường giải thoát.
Đây là hạng người học Phật tu nhân.
Bàn xét như trên, thấy rằng toàn thể trong đạo chúng ta thuộc hạng tại gia cư sĩ, học Phật tu nhân vậy.
Chú Giảng:

Hạng Xuất Gia: Xuất là ra khỏi, Gia là nhà. Danh từ nhà Phật, xuất gia là ra khỏi nhà chung với thân quyến để chuyên việc tu hành.
Đạo Phật, cũng gọi là Phật Giáo, là một trong nhiều tôn giáo ở thế gian. Vị sáng lập đạo Phật là Đức Thích Ca Mâu Ni, nước Ấn Độ 563 trước kỷ nguyên Cơ Đốc Giáo. Ngài Tu chứng từ bổn tâm thanh tịnh mà thành chánh quả. Xét trong ai cũng có bổn tâm thanh tịnh nhưng vì sống theo duyên nghiệp bên ngoài chung chạ với vô minh mà quên cái bổn tâm thanh tịnh ấy. Tùy căn cơ của chúng sanh Ngài dạy cách tu để đạt ngộ diệu lý, giải thoát mê đồ. Đạo Phật vượt thời gian chân truyền qua 33 đời Tổ, vượt không gian đi từ quốc gia nầy đến quốc gia khác khắp cõi Ta Bà.
Nhà Sư: Nhà là ý nói người có tính chuyên môn, giỏi nghề, hay việc, là người nam tu hành, cũng gọi là Tăng. Nhà Sư là vị nam tu chuyên môn, không chuyên môn chỉ gọi là Sư thôi. Ví vụ: Cũng đồng là viết văn nhưng chuyên môn hơn người ta gọi là nhà văn, viết báo chuyên môn người ta gọi là nhà báo, làm ruộng chuyên môn người ta gọi là nhà nông giỏi… Quý vị đọc thấy Đức Thầy đã triển khai ý tứ cho một nhà sư có chuyên môn “Đã hoàn toàn ly khai với gia đình, quê hương bè bạn…không còn thiết đến việc đời, gia đình nhà cửa của nhà sư là cả thế gian, thân quyến của nhà sư là khắp cả nhơn loại đại đồng”.Giải thích xong Ngài kết luận: “Đó là hạng người dốc tu cho mau thành Phật quả, thoát kiếp luân hồi”. Do vì chuyên môn mà Đạo Phật áp dụng Qui tắc cho Sư Tăng phải giữ 250 điều giới luật.
Ni Cô: Là người nữ tu hạnh xuất gia, có quyền như các nhà sư, vào chùa hay tạo riêng am cốc nơi thanh vắng chuyên tu, chọn pháp môn nào thì bình đẳng nhưng giữ giới nhiều hơn, bị ràng buộc bởi 348 điều giới luật.
Ly Khai: Không còn dính líu. Ví dụ: Ly khai khỏi tổ chức, để từ đó không còn trách nhiệm với tổ chức, ly khai gia đình là không còn chịu trách nhiệm với gia đình. Ly khai hay khai trừ đều có một nghĩa là ra khỏi tổ chức, gia đình, nhưng ly khai mang ý nghĩa tình nguyện còn khai trừ là đuổi ra.
Dựa Thân Vào Cửa Thiền: Gọi vắn tắc, cửa Thiền tức cửa chùa, dong dài một chút người ta gọi là “Cửa Thiền Môn”. Nơi đây là chỗ tu hành của những hành giả muốn lánh tục nên gọi là “Dựa Thân”.
Am Cốc: Am là chùa nhỏ riêng biệt hoặc nhà nhỏ đơn sơ sống an bần tu niệm; cốc là hang, động trên núi. Người xuất gia ở ẩn Am Cốc vắng vẻ để tịnh tu.
Kinh Kệ: Kinh là lời Phật thuyết đạo lý, các đệ tử ghi lại; Kệ như tóm tắt đại ý. Một thời kinh rất dài, giảng rộng, e thính chúng nghe sau quên trước, nên thường thì sau mỗi thời Kinh, Đức Phật hay nói kệ như nhắc lại ý chính, để đoạn trước đoạn sau đều nhớ.
Dà Lam: là chùa hay cửa thiền. Chùa là nơi tu niệm, ý nói, săn sóc cảnh Dà Lam cũng chính là săn sóc việc tu hành.
Kính thưa quý vị! có thể chúng ta xin ít thời giờ để bàn thêm chút chuyện Săn sóc cảnh Dà Lam cho ra cái lẽ chủ ý của Đức Thầy. Có người nói Cảnh Dà Lam là cảnh quang trong chùa, cây cảnh, bông hoa. Dòng chảy “Săn Sóc Cảnh Dà Lam” liền theo là “trau luyện đức lành giồi mài trí tuệ”. Cái việc tu chừng như không còn kẻ hở ấy làm gì có chuyện săn sóc cảnh Dà lam là đi o bế mấy cây bông hoa! Đừng nghe thấy chữ “Cảnh” mà đề cập cảnh Dà Làm là cảnh trong sân chùa với những bông hoa tươi thắm, mĩ mìu, nghệ nhân con nầy hình nọ. Mắt thấy sắc mà động lòng thì đừng nói là sắc gì, tu không nên đâu! Làm bất cứ việc gì mà siêng năng săn sóc thì kết quả phải tốt cho việc đó. “Săn sóc cảnh Dà Lam” chính là săn sóc việc tu hiền thì chỉ tốt cho việc tu hiền.
Bá Tánh Thập Phương: Bá Tánh là Trăm họ, chỉ chung cho mọi người. Thập Phương là mười phương, gồm có Đông, Tây, Nam, Bắc; đông nam, tây nam, đông bắc, tây bắc với hai hướng Thiên và Địa. Ý nói, chúng sanh trong mười phương rất cần có giá trị đạo đức trong cuộc sống, ai tu đạt đến tâm trạng “Gia đình nhà cửa của nhà Sư là cả thế gian, gia quyến của nhà Sư là khắp cả nhơn loại đại đồng” đem sự tu của mình mà giảng hóa độ chúng .
Quày Đầu Hướng Thiện: Người đang đi trên ác đạo gây nhiều tội lỗi, nay không làm tội mà làm phước là quày đầu, hướng thiện là hướng về đường lành, làm việc lành. Đức Thầy nói: “ai mà xét đến ăn năng, quay đầy hướng thiện bần tăng dắt giùm”.
Quy y: Danh từ nhà Phật. Quy là Về, Y là làm theo. Đức Thầy giảng rõ: “ Quy là về, mà về đâu? Về cửa Phật. Y có nghĩa là vâng lời theo khuôn mẫu.
Vậy quy đầu Phật là nương nhờ cửa Phật và làm y theo lời Phật dạy. Phật từ thiện Cách nào ta phải từ thiện theo cách nấy, Phật tu cách nào đắc đạo rồi dạy ta, ta cũng làm theo cách nấy. Thầy cảnh tỉnh giác ngộ điều gì chánh đáng thì khá vâng lời. Cần nhứt là chỗ giữ giới luật hằng ngày”.
Ở Đạo Phật, Thiết ra cái lễ cho người quày đầu hướng thiện gồm có Tam Quy, cũng gọi là quy y Tam Bảo: Phật Bảo, Pháp Bảo và Tăng Bảo. Quy Y Phật là phục mình kính lễ, theo gương Phật mà tu; Quy Y Pháp: gồm có: Học hành, Bảo vệ và Truyền bá chánh pháp; Quy Y Tăng: Tịnh hạnh hành đạo, giữ gới trang nghiêm.
Phật Pháp: Phật là đấng đã giác ngộ, có tam toàn, tức toàn giác, toàn thiện và toàn năng; Pháp là lời Phật dạy gồm Tam Tạng: Kinh Tạng, Luật Tạng và Luận Tạng, có công năng đưa người quày đầu hướng thiện từ mê sang giác, từ phàm phu thành Phật.
Đức Thầy là cổ Phật lâm phàm khai sáng đạo Phật Giáo Hòa Hảo, lời dạy trong Sám Giảng Thi Văn đều là Pháp của Ngài, Phật Pháp, tín đồ xem đó mà bảo trọng,  tu học tất nhiên sẽ đắc thành. Nói gọn lại: Phật Pháp tức là Đức Phật và giáo pháp của Ngài nói ra để độ chúng.
Phật Quả: Phật là một trong bốn ngôi bậc trên trước: Phật, Thánh Tiên, Thần, Quả là ngôi vị, quả vị, chứng quả Vô Thượng Bồ Đề. Cũng gọi là Quả Phật, tu chứng quả nầy là giải thoát mọi khổ não, không còn sanh tử luân hồi.
Luân Hồi: Luân là bánh xe, Hồi là trở lại, Ý nói kiếp con người hết sanh thì đến tử, tử rồi lại sanh, như bánh xe, quay hết một vòng thì tiếp theo một vòng quay khác. Trong vòng quay luân hồi, có kiếp làm đàn Ông có kiếp làm đàn bà, có kiếp giàu sang có kiếp nghèo khổ, có kiếp ăn sống thừa thảy có kiếp đi xin không đủ mà ăn, kiếp làm người kiếp làm thú … là do luật nhân quả. Nếu ai tu chứng viên thông hay Niệm Phật đạt nhứt tâm Bất Loạn làm nhân thì kết quả sẽ được thành Phật hay vãng sanh về cõi Phật, chấm dứt luân hồi.
Hạng Tại Gia: Danh từ nhà Phật, chỉ người không đủ điều kiện tu xuất gia thì tu tại nhà, gọi đủ là tại gia cư sĩ.
Non Sông Tổ Quốc: Non Sông người ta cũng gọi khác đi là Sông Núi, chỉ cho giang san bờ cõi một quốc gia. Đức Thầy viết bài “Chí Nam Nhi” trong đó có câu: “Khí thiêng liêng sông núi nhiệm mầu, un đúc giống anh hùng vang bốn bể”. Tổ quốc là các bậc Tổ Tiên đã lập ra nước Việt để người đời sau không cần lập quốc mà là bảo vệ tổ quốc.
Sẵn Sàng: là nói đến chuyện có liền, hiện có: Đồ đạc, xe cộ sẵn sàng, tiền bạc sẵn sàng, tới việc là đem xài không cần phải kiếm. Nhưng ở đây trong khuôn phép đạo đức, chỉ “sẵn sàng hoan nghinh ca tụng lý tưởng từ bi bác ái đại đồng của nhà Phật và luật nhân quả do Phật thuyết ra” thôi.
Ít Điều Giới Luật: Vì tu ở tại gia cư sĩ, sự tiến bộ chỉ là “lần lần lên con đường giải thoát” nên giữ giới ít hơn, Ngũ Giới: Không sát Sanh, đạo Tăc, Tà Dâm, uống rượu, nói dối;  hoặc thập giới: Không Sát sanh, đạo tặc, Tà Dâm; lưỡng thiệt, ỷ ngôn, ác khẩu, vọng ngữ; tham lam, sân nộ, mê si là nói theo đạo Phật, Phật Giáo Hòa Hảo có tám điều răn cấm (phần nội dung của Tám Điều Răn Cấm chúng ta bàn ở mục chính)
Sửa Tánh Răn Lòng: Tánh mà người tu nói sửa được thì không phải là Phật Tánh, là tánh còn nằm trong viện phàm phu, có thiện lẫn trong ác, có xấu lẫn trong tốt: sửa tánh tức là sửa cái ác tánh trở thành thiện tánh, xấu trở thành tốt. Răn Lòng: Ngăn cấm từ trong lòng đồng thời có thêm dạy bảo. Sửa Tánh Răng Lòng là ý nói: đã sửa được rồi thì nghiêm cấm không cho phạm hư nữa.
Ủng Hộ Các Sư: Ủng Hộ là trực tiếp tiếp tay, tiếp sức, tiếp ý với công việc của người khác, ví dụ tôi không là người chủ sự công cuộc xã hội từ thiện nhưng có ai ra làm là tôi ủng hộ hoặc sức lực, tiền bạc, lời lẽ… Không tu hạnh xuất gia nhưng ủng hộ người xuất gia. Các Sư: Hầu hết những người Xuất Gia tu lên bậc Thầy, Các Sư là các Thầy. Việc ủng hộ các sư ở người tín đồ PGHH còn phải qua sự chọn lọc những nhà sư xứng đáng, hạnh cách, giới luật tinh nghiêm thì mới ủng hộ. Như bài “Đối Đãi Các Tăng Sư” Đức Thầy dạy:
“ Tất cả bổn đạo nên cung kính các Tăng Sư tu hành chơn chánh. Nếu các Ông ấy có dạy điều chánh lý, phải nghe lời. Đối với hạng tu mà mình biết rõ là dối thế (như mấy Ông Thầy đám…) hãy tìm cách khuyên can các Ông trở lại con đường chân chính của Đạo Phật. Nếu các Ông vẫn tiếp tục làm điều tà mị, mình phải bài trừ triệt để và giảng giải cho quần chúng cùng những tín đồ nhà Phật hiểu đặng xa lánh họ”
Tại Gia Cư Sĩ: Người ở tại nhà đặt sự tu. (Chúng ta cần mở rộng điểm nầy). Theo Đạo Phật là bình đẳng các pháp môn, người ở nhà hay ở chùa, xuất gia, tại gia đều có thể tu chung pháp. Ví dụ Pháp môn Tịnh Độ, trì niệm danh hiệu Đức Phật A Di Đà, ở chùa niệm được thì ở nhà cũng niệm được. Chùa hay Nhà là nơi ở còn tu là ra công niệm Phật. Để đạt kết quả của pháp môn Tịnh Độ là Niệm Phật đến “Nhất Tâm Bất Loạn” không dính líu gì về tu chùa hay tu nhà. Lý thuyết là thế, đối đầu với Pháp Môn Tịnh Độ ta phải công nhận gặp nhiều thứ khó hơn người tu xuất gia. Tuy nhiên, rán sức vượt khó mà tu được thì khó sẽ dần dần biến thành dễ cho ta toại nguyện.
Học Phật Tu Nhân: Học Phật tức học Đạo Phật đã có từ Đức Phật Thích Ca. Vấn đề Học Phật Đức Thầy dạy rất rõ nét:
“Vậy quy y đầu Phật là nương nhờ cửa Phật và làm y theo lời Phật dạy. Phật từ thiện cách nào ta phải từ thiện cách nấy, Phật tu cách nào đắc đạo rồi dạy ta, ta cũng làm theo cách nấy”. Dạy như thế thì Học Phật cũng chính là tu Phật. Tu Nhân tức tu theo đạo nhân, từ bước đầu để lần lên Tu Phật.
Buổi học đến đây xin tạm dừng.
Hãy trả lời những câu hỏi sau đây:
1. Xin cho biết sự khác biệt của từ Sư và Nhà Sư?
2. Nữ tu xuất gia làm Ni Cô giữ bao nhiêu giới?
3. Thế nào là “Săn sóc cảnh Dà Lam”?
4. Giải thích ý nghĩa Non Sông Tổ Quốc?
5. Ủng Hộ Các Sư, hãy giải thích dạng nào mới được ủng hộ?
6. Cho biết cách sửa tánh răn lòng?
7. Cửa Thiền là nơi đâu? Ai mới là người dựa thân cửa thiền?
8. Tu tại gia, Niệm Phật cầu vãng sanh có khác hơn tu ở chùa  không?
15/10/2015





Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét