Thứ Ba, 14 tháng 10, 2014

Kể Chuyện:
DUYÊN TRẦN BẠC BẼO

Chỉ còn một mình trong mái tranh nghèo, lớn nhỏ rủ nhau đi về cõi chết, cô hai Nghì giải quyết nhanh những đồ dùng không cần thiết từ trong nhà cho đến bản thân để biến nhà thành am thất thanh tịnh cho một nữ tu sau khi những người thân yêu lần lược qua đời.

Sống đời trần duyên bạc bẽo, còn bé thì đã mồ côi cha lẫn mẹ, sống nhờ tình thương của Cậu Chú Cô Dì mà lớn lên trong buồn tủi, bất hạnh, đã vậy còn bị trừng phạt thêm suốt kiếp nghèo dai dẳng. Tạo hóa cho cô sanh chỉ một đứa con gái thì năm sau cha nó qua đời, đau như giãy chết. Tuổi còn bén xuân, hương tình đẩy đưa, rộn ràng Ông Bướm. Có người đàn ông trẻ, cưới vợ qua vài năm chăn gối thì bà ta yểu mệnh trong khi chưa sanh cho Ông ta đứa con nào, đến hỏi chuyện trăm năm với cô, hứa lo lắng hết lòng cho mẹ con cô có cuộc sống ấm êm. Nhiều bà con trong xóm biết người đàn ông trẻ nầy hạnh kiểm tốt lại sống nhờ phụ ấm của tổ tiên có ăn có để, khuyên cô nên lấy anh ta sau nầy không lo nghèo đói. Nhưng cô một lần đứt dây tơ tình là ngán ngẩm, hết một ước mơ trăm năm như vậy cũng đã đủ, còn ham chi mà kiếm thêm một lần trăm năm nữa! Cô quyết không tái giá, sống trong cảnh nghèo thiếu chật vật cam chịu tu tâm sửa tánh giải bớt nợ nầng đời trước để một kiếp thì chấm dứt, không có kiếp sau sanh lên chịu sự trừng phạt của quả báo như giờ. Đọc thấy trong giáo lý PGHH dạy rằng “ Miễn cho được ngày hai cơm tẻ, buổi bần hàn đặng có tu thân” . Cô nghĩ, mình Nghèo, nhưng ngày hai cơm tẻ luôn luôn được bảo vệ tốt, chỉ còn lo tu nữa là đúng sách.
Ngày qua ngày tần tảo nuôi con. Đến tuổi học trò cô cũng dẫn cháu cắp sách đến trường. Cháu học rất giỏi, ở trường Thầy, Cô giáo dạy cho cháu chữ nghĩa, về nhà mẹ dạy cháu lễ nghi hạnh cách. Học lên vài lớp, vì gia cảnh nghèo không tiền đóng học phí cháu phải đành thôi việc bút nghiên.
Gái lớn lên là phải có chồng, cô gả chồng cho con, duyên tình nồng ấm tạo hóa cũng theo đó mà trớ trêu đùa nghịch, nó sanh cho bà một đứa cháu gái, chưa đầy một năm nó cũng vội vàng theo cha xuống chốn tuyền đài.
Chứng kiến hai cái chết của hai người thân thương tuổi xuân đang độ nồng nàn cô rất đau buồn mà nhìn về tương lai càng thêm mờ mịt, thấy mình mỗi lúc mỗi cô đơn tróng vắng, mệt mỏi, ngao ngán.
Nuôi cháu ngoại còn nằm trong nôi, mỗi sáng chiều bà ẵm cháu đi xin bú thép mà cảnh tình lúc nào cũng thiếu thốn, vất vả. Có hôm bà chợt nghĩ điều mà đáng ra bà không nên suy nghĩ: Định mệnh khắc khe bắt gia đình mình số 2 là con số cuối cùng sao? Hết hai lần nhà có hai người, hễ lên đến con số 3 thì trong 3 phải chết 1. Nghĩ đến… bà bắt đầu lo sợ đứa cháu ngoại lớn lên thì phải có chồng, sanh con, hộ khẩu gia đình lên con số 3, con số quy luật đáng ghét! Không biết rồi đây bà hay cháu ngoại của bà chứng kiến trong nhà có một người chết nữa…
Tức khắc bà suy nghĩ lung tung: nếu cháu có lập gia đình thì gả đi chớ không bắt rễ nhà nầy sẽ không lên con số 3. Cho như vậy là yên. Mừng chưa lâu  bà nhận ra sự nông nổi của mình có thể dẫn đến tình huống bi đát hơn làm mất đi con số 2 quyết định. Nếu cháu bỏ ngoại xuất giá vu qui nhà chỉ còn một bà già, con số 1 còn đáng ghét hơn. Thử tính chuyện không cho cháu gái lấy chồng, bà biết là không đơn giản, tuổi xuân hạnh phúc lứa đôi rất là quan trọng nhưng chỗ bà thấy sự sống chết của con người còn quan trọng hơn, vợ chồng làm chi một chút rồi kẻ dương gian người âm cảnh…



Cắt đứt dây tơ tình chỉ có một điều duy nhất là TU . từ đó bà thường dẫn đứa cháu ngoại đi chùa lạy Phật, học hỏi đạo lý chứa nhiều trong lòng cho lòng không còn điều thế sự mà ham hố. Tuổi cháu, từ lúc học lớp 2 trường làng, bà ngoại dạy cháu cúng lạy sớm chiều, mãn giờ học ở trường về nhà bà cho cháu học đạo hoặc dẫn đi tham dự những cuộc cầu nguyện, bà gợi lên chuyện học hỏi Phật Pháp cho cháu có nhiều ấn tượng đạo đức. Ngoại may mặc cho cháu đồ bà ba đáy nem thành cô “Đạo Nhí” ngay. Mỗi khi cô đạo nhí  theo ngoại đi chùa, cầu nguyện, học hỏi, luôn tỏ ra có hạnh nết, quý Ông Bà Cô Chú trong đạo rất thương mến ngợi khen. Tiếng khen cô đạo nhí ngày qua ngày đồn đải ra xa chiêu mộ tuổi thơ, măng non lớp lớp làm ấm gốc những buội tre già. Cô đạo nhí rất mực thông minh, hiểu biết lanh lẹ, nghe dạy một lần là nhớ. Học mỗi năm mỗi lên lớp với điểm cao; bà ngoại được giấy khen của Thầy, Cô, cháu là học sinh tiên tiến.
Năm nay cô Đạo Nhí lên lớp 7, càng lớn càng trầm tỉnh, đẹp ra, mặt vui nhưng không vui cười trửng giỡn. Mỗi hôm đi học về, buông cập vở ra là phụ tiếp công việc nhà với ngoại. Thế rồi gần học thi cuối năm lớp 7 cô “ Đạo Nhí” bị cảm nặng, dẫn tới nằm liệt trên giường không ăn uống gì nữa. Trong cơn bạo bệnh cô đạo nhí mình mẩy có hơi khó chịu nhưng kiên nhẫn niệm Phật quyết không lơi lòng cho sự khó chịu làm náo loạn trong tâm. Cô cho ngoại biết cô vẫn chánh tâm Niệm Phật và báo lên điềm mộng đêm rồi với ngoại rằng Đức Phật A Di Đà hiện diện trước mặt con, Ngài nói sẽ đến rước linh hồn con  ngay lúc con lâm chung.
Bà ngoại thoán chút mặt mày rạng rỡ vì kết quả cho sự tu hành của đứa cháu cưng thì tâm hồn trở nên hồi hộp, lo sợ, trên nhân gian nầy bà sẽ mất vĩnh viễn đứa cháu ngoại dễ thương.
Qua vài hôm ngoại lo thuốc thang cho cháu chống cự với tử thần, cô đạo Nhí yếu lắm, biết sắp được Phật đến rước mà hết sức ngồi dậy để biểu hiện sự ra đi an lành, cô nằm xuôi thẳng đôi chân, bình tỉnh, chấp tay lên ngực để biểu hiện có Đức Phật đến trong giờ phút thiêng liêng,  trước sự chứng kiến của chư đồng đạo.

          Bà ngoại Nghì, không biết phải gì khóc quá nhiều cho chồng cho con đến không còn chút nước mắt khóc cháu, hay vì mấy năm theo đạo tu hành bà đã tu được, học nằm lòng lời Phật dạy về tấm thân vô thường giả hợp mà đạt đến “Nghiệp sạch tình không”. Bà âm thầm làm hậu sự cho cháu bằng Niệm Phật, niệm Tây Phương tiếp dẫn mà chắc rằng lời nói trước lúc lâm chung của cháu là sự thật.
Sanh sống có tình người, vui vẻ, hiền từ. Nhà nghèo nhưng rất trong sạch về tiền bạc, cặm cụi với nghề làm bánh bán nuôi thân kiếm ngày hai bửa cơm đủ để niệm Phật hành thiện. Có người tới chơi thấy bà cực khổ, hẩm hui, thương tình mở mòi bày chuyện cho bà kiếm thêm tiền và đở nhọc, bỏ cái nghề làm đủ nhét kẻ răng nầy, sợ chừng già hết làm được nghề lấy đâu mà ăn sống tu hành. Nói tiền nhiều bà không ham, cho tiền không công bà không nhận, hạnh cách đó bà con trong xóm, đồng đạo xa gần rất quí mến, cảm đức hiền lương đem hết tâm quyết “Con Một Cha”của Đức Thầy dạy, ủng hộ chịu hết chi phí các lễ cầu tuần cho cô đạo nhí, cháu gái của bà.
Khách đến cầu siêu đưa tiểng vong linh đạo Nhí rất đông có lúc trong nhà không còn chỗ ngồi, chỗ đứng, đùn người trước sân, đường. Những nhà lân cận bên này bên kia đường thấy thế tự lôi bàn ghế trong nhà ra mời khách tạm ngồi, lăng xăng trà nước. Một điều hết sức là ấn tượng, trong lúc làm lễ di quan người ta thấy có 37 đồng đạo cô cậu tý hon mặc đạo phục xếp hàng đôi từ chiếc võ đò đi lên vừa vào sân nhà đồng thanh đọc lớn bài Tây Phương tiếp dẫn vong linh.
Đưa huyễn thân cô Đạo Nhí đến nắm đất hoang diễn ra rất trang nghiêm long trọng. Bà ngoại Cảnh từ đây hết lo sợ chuyện huông nhà 3 mất 1. Bà đinh ninh số 2 là con số thỉ chung của nhà mình không dám kiếm thêm số 3, nhưng không ngờ, con số 3 bà đã không dám tính tới mà nợ tiền khiên oan nghiệt còn cướp mất con số 2 nguyên lý của nhà bà. Trước cảnh mất 2 còn 1 bà mới thắm thía lời Phật dạy hơn bao giờ hết.
Giờ thấy chuyện sanh tử vô thường không cần đem bàn bạc nữa, một thân trơ trọi nhưng không cảm thấy tróng vắng cô đơn, điều lo sợ trước kia già bệnh chẳng ai lo, chết không người chôn cất giờ trở thành vô nghĩa và cho đến hết kiếp bà không đem ra bàn bạc nữa. Trong lòng bà có Phật, bà nguyện khắc cốt ghi xương theo Phật quy Tây.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét