CẦN
TỰ DO
Thấy con Chim nhỏ dễ thương, nó bay
đây bay đó vui chơi làm ta thích, mổ mổ nhánh lá cây, hót tiếng trầm
bổng ngọt ngào như giọng hát mừng xuân. Nó vui làm ta vui lây nhưng thương
quá, cũng có lúc ta hơi quá đáng, thấy nó mổ mổ bươi kiếm mà tưởng
rằng nó đói và tiếng hót như tiếng kêu than đói tội nghiệp! Sợ nó
đói, ta bắt thẩy nó vô chiếc lồng túm húm, đem cho nó một vùa gạo
lúa và một lon nước sạch, để từ rày, chuyện ăn uống chim khỏi mắc
bay tìm kiếm nơi đâu. Có ăn uống đầy đủ nhưng mất tự do, cái mà ai ai
cũng cần.
Ta làm như vậy mà nói thương Chim
chưa chắc đã đúng. Khi con người bị ràng buột mới biết sống tự do
là điều cần thiết nhứt. Có người bảo: Không có tự do ở đó ăn vàng
cũng không ham. Thế nhưng vẫn còn rơi rớt ít người chịu khổ vì ham ăn
vàng, họ người có học đàng hoàn mà hành động như người vô học để
được ở trong chiếc lồng mà ăn vàng cho thiên hạ cười chê, uổng kiếp !
Một quốc gia không có tự do dân chủ
thì nhân dân trong nước đứng lên đòi tự do dân chủ, có tôn giáo mà
không được tự do tôn giáo, các chức sắc tín đồ tôn giáo cũng phải
kêu đòi. Trong kiếp sống con người hay các loài động vật khác, đâu đâu
cũng muốn có tự do. Xin đừng bắt nhốt quan niệm sống của người ta
trong lồng túm húm mà bảo cái lồng ấy tự do là quá ngược ngạo.
Loài chim, Trời sanh ra cho nó bay lại nhốt không cho bay, nó ở trên cây
cao mà bắt đè đầu nó xuống thấp còn nói thương nó là thiếu chứng
thực. Thương Chim ta hãy để chim bay tự do, còn sợ nó đói tìm mồi
không được thì ta hãy để thức ăn, nước uống ngoài chiếc lồng cho nó tự
do bay đến ăn và bay đi.
Người tu độc thân chưa bị cột trói
trong chiếc lồng Phu Thê tự do như con chim muốn bay đâu thì bay, nhưng
nếu chưa nằm trong chiếc lồng Phu Thê mà để tâm ham thích chuyện ấy không
sớm thì muộn cũng vào lồng. Ý thức ban đầu đã gợi lên lòng ta lập
trường tu độc thân để gánh vác đạo pháp. Có lập trường thì nên bảo
vệ lập trường để có tự do theo đuổi mục đích. Ta chỉ một thân ta
thôi thì mọi việc ta tự làm chủ bản thân và tự giải quyết những
khúc mắc trên đường đạo không bị ai tranh cản. Không vào phu thê là
một lẽ, lòng phải ráo quảnh những ý tưởng tình dục là một lẽ
khác, chỉ có Phật và Pháp của Phật là rất đáng để cho ta nương tựa,
đề cao. Đã đem thân tu hành sao không nương tựa Phật Pháp mà nương tựa
tình dục? Thảo nào Đức Thầy chẳng đặt ra câu hỏi:
“ Đã từng dựa kẻ nâu sồng
Cớ sao tâm trí còn tòng ngoại
duyên”?
Có tu niệm Phật nhưng đầu óc không
nương tựa Phật thì chắc chắn sẽ không về với Phật mà nương tựa tình
dục thì nữa sau đắc đạo vợ chồng. Chim ơi là Chim! Hãy bay cao bay
cao! Tung Cánh Chim Bằng:
Phiêu phiêu bay bổng chín từng mây,
Xòe cánh trùm che cả đất nầy.
Chọn lấy lòng Từ xây tổ ấm,
Lựa tâm bình đẳng cất xum vầy.
Nhà ma hay ỷ mình gian ác,
Cửa Phật nhu hòa đó với đây;
Chim đã bay cao đừng ngó xuống,
Vấn vương trần thế đếch ra Thầy.
Thầy tu phải đánh cuộc du phương,
Chẳng cớ để ma nó cúng dường.
Bay được cứ bay lên nữa,
nữa,
Đừng tu như thể giữ Vò Tương.
Ta Bà còn kẻ đang chìm đắm,
Tịnh Độ chưa về quyết dẫn đường;
Ở thế tung bay trên việc thế,
Lo gì chẳng Phật chốn Tây Phương.
Tục ngữ Á Rạp có câu “ Hôn nhơn như
cái đồn bị vây, những người ở ngoài muốn vào trong còn những người
ở trong thì muốn ra khỏi đó”. Hôn nhơn do tác nghiệp của đời trước
mà đường tình duyên có khi hòa thuận yêu thương, có khi bất hòa vợ
chồng thường hay sanh giặc, muốn tu tại gia cư sĩ cũng không được. Có
những người tu độc thân lâu tưởng yên, ai vè lòng có kẻ hở, tình yêu
đã chui vào kẻ hở đó không hay, nó làm chủ tình hình ra quyết định
“Tu Quốc Vương” như Kim Cổ Kỳ Quan Ông Nguyễn văn Thới nói “ Tu quốc
vương có vợ có chồng, sanh con đẻ cháu nối giồng Nam Bang”. Tính như
vậy là tu xuống cấp, vì ta nguyện “Tu hành theo Phật Đạo”. PGHH là
đạo Phật, ta đã cầu các vị từ Phật Tổ Phật Thầy cho đến Quan
Thượng Đẳng Đại Thần, chư quan cựu thần… chứng minh cho mình quy y là
quy y tu hiền theo Phật đạo. Trong bài nguyện quy y trước bàn thờ Phật
ta đọc suốt đâu thấy câu nguyện tu quốc vương. Tại vì tu hành bê bối
muốn có hôn nhơn, mượn câu tu quốc vương của Ông Ba điền vào cho đỡ
thẹn.
Một số người tu độc thân bị té
vào hôn nhơn, chịu cảnh “Đồn bị vây”, và hôn nhơn thì không mấy hạnh
phúc, thấy những người ở ngoài đi lại tự do thì tiếc lắm mà đâu dễ
thoát ra được. Cổ nhân bảo “Nhơn phiền ư thê tử, thê tử thậm ư lao
ngục, lao ngục vi tán tích chi kỳ, thê tử vô viễn ly chi niệm”. Diễn
lý: Người đau sầu vì cảnh vợ chồng sống không vừa lòng thuận ý
thường hay cải vả to tiếng, con cái nói không nghe, ví như kẻ bị đày
trong lao ngục, nhưng lao ngục còn có ngày phóng thích tù nhơn mà vợ
chồng con cái nó cột buột là nhà tù mãi mãi, mãn phần chớ không mãn án,
nó “ vô viễn ly chi niệm”.
Làm cha mẹ có con đến tuổi thành
nhân muốn lo cho con nên duyên nên phận nhưng con cái không ham điều đó,
chỉ ham tu thôi, thích sống đơn thân, không bị ràng buộc thì cha mẹ
cũng đừng ham bồng cháu nội cháu ngoại mà ép con vào hôn sự, chưa
chắc bồng cháu là hạnh phúc đâu. Trên đời biết bao nhiêu gia đình
sống hòa hợp mà chừng có dâu hay có rể thì gia đình trở nên xào
xáo lung tung, vướng vào khẩu nghiệp lưởng thiệt, ỷ ngôn, ác khẩu, vọng ngữ ào ào.
Tôi nói đề tài “ Cần Tự Do” là
nói riêng với chư huynh đệ tu độc thân mình nhá. Quý vị cũng biết, người
được coi là Chiến Sĩ Anh Dũng, không phải được khen “Anh Dũng” thì
liều chết lấy tiếng. Những chiến sĩ có bản lĩnh chiến trường, vị
chỉ huy của họ muốn họ sống mãi để giúp đỡ đơn vị chủ lực mạnh
thêm mạnh, chứ được khen mà vỗ ngực xưng danh, đứng dõng lưng trước
tên, đạn ít bửa là giặc nó bắn chết ngắt cuộc đời, làm cho đấng
chỉ huy tỏ lời than tiếc. Chẳng phải Đức Thầy đã than tiếc đó sao:
“Nước non đang thiếu anh tài
Tử thần vội cướp đưa ngay chầu
Trời”.
Người tu, ta nguyện làm chiến Sĩ
của Như Lai đánh giặc phiền não, Ngài không muốn cho chiến sĩ của
Ngài chết ở chiến trường tình dục. Ngài phán quyết chung cho các
chiến sĩ “ Dâm tâm bất trừ, trần lao bất khả xuất”, chỉ trong lòng
suy nghĩ (dâm tâm) về chuyện ấy
thôi còn vậy huống chi người chiến sĩ đã đi đến thành tựu hôn nhơn
thì cái chết mà “Trần lao bất khả xuất” quá rõ ràng. Đức Thầy
cũng cùng ý đó nên đã cảnh báo môn đồ “Lợi danh, quyền tước, nghĩa
vợ tình chồng…, cái tư tưởng đã rù quến tâm trí mãi mãi quay cuồng vào
những sự ấy, không thể nào thoát ly ra được”.
Ta nghe câu “không thể nào thoát ly
ra được” thì phải sợ mà tránh xa lực húc của nó. Đơn giản thôi,
đừng gần lực húc thì có đâu cho mà húc. Đạo Phật ngày xưa rất
nghiêm giới luật, nam nữ đâu có tu chung hay làm phật sự, từ thiện
chung. Từ nguyên thỉ, đạo Phật có Tăng không có Ni, Di Mẩu của Phật
Sĩ Đạt Ta đến trước Ngài khẩn cầu lắm mới được; nhưng phải ở riêng
tu riêng. Ngày nay xa Phật, tới chỗ tu, đã là đạo tràng hay Niệm Phật
Đường rồi mà cũng còn nam nữ lộn sộn. Sao không tổ chức đạo tràng
nữ đạo tràng nam để phái nào tu theo phái đó? Nam Nữ trẻ tuổi mà
gần gủi tu chung nhiều, e có ngày sẽ xảy ra chiến trận xáp lá cà. Tôi
nói “ e” là khiêm nhượng như chưa có, nhưng thật sự thì đã có và có
rất nhiều trận đánh xáp lá cà, chư huynh đệ biết mà !
Nghe lời Thầy dạy khi Ngài đã tỏ
bày tâm sự với Ông ký Lục Ngọ:
“Đem thân mà rứt nợ trần
Nợ trần đâu khéo chần ngần chung
ra.
Nhìn đời lụy muốn ứa xa
Thế gian đui tối nửa ma nửa người.
Muốn reo vang một tiếng cười,
Nhưng lòng chẳng nỡ khi người mê si.
Đâu thông pháp luật, Từ Bi,
Gán cho Tăng Sĩ làm chi sự đời.”
Đức Thầy đến ngụ nhà Ông Ký Giỏi là bị đến bởi quyền quyết định của
quân Pháp. Ông Ký có cô con gái xinh xắn
đã hứa tác hợp lương duyên cho con trai Ông
Ký Lục Ngọ. Chờ ngày đám cưới bổng đâu vị tiểu thư nầy đổi ý từ
hôn, nên Đức Thầy bị bên đàng trai nghi là làm cản trở cuộc hôn nhơn.
Trong bài đề tựa là “Cảm Tác” có câu “Đem thân mà rứt nợ trần, nợ
trần đâu khéo chần ngần chung ra… Gán cho Tăng-Sĩ làm chi sự đời”.
Ngài thị hiện “rứt nợ trần” cho chính Ngài, đồng thời còn treo gương
rứt nợ trần cho bước tiền đồ Phật Giáo. Ngài là vị Giáo Chủ một
tôn giáo, có hàng vạn triệu người thương kính mà chuyện có chút vậy
chẳng dính vào đâu còn bị phía nhà Ông Ký Lục Ngọ đàm tiếu xa gần,
huống chi chúng ta là môn nhơn tín đồ không có sự thương kính đến vạn
triệu như Ngài mà nam nữ đến gần nhau vì thích thì thị phi đến cỡ
nào nữa?
Quý huynh đệ ơi! dang nắng dầm mưa,
ra sương gió nhiều dễ hay bệnh lắm. Cái gì làm cho tâm ta dễ hay sanh
bệnh thì ta biết rồi. Biết những món ăn uống đó là đồ độc địa thì
thôi đừng ăn là tốt hơn. Xin đừng nói cứ ăn cho đả miệng rồi uống
thuốc giã độc; đi rong cho đã rồi ít bửa về tịnh tu lấy lại. Uống
thuốc giã độc tất nhiên là có độc vào mình, đáng lý ra ta phải làm
cách nào cho thuốc độc không vào mình để không tốn thuốc; tịnh tu đâu
phải dễ mà nói đi rong cho đã ít bửa về tịnh tu lấy lại? Nói
chuyện bằng chơi! Nếu ngày nào chất độc cắm sâu vào lục phủ ngũ
tạng, nó phá banh các tạng thì thuốc giã độc sẽ không còn tác dụng
nữa đâu. Đừng tin tưởng thuốc giã độc là thần dược. Thay vì giã độc
ta cố gắng ngăn ngừa không cho độc vào mình sẽ chắc ăn hơn.
Như Chim Đại Bàng bay cao bay cao, xin
đừng ngó xuống, đừng quay đầu nhìn lại cho vấn vương trần thế; ở thế mà
TỰ DO, tung bay trên việc thế mới chính là Chiến sĩ của Đức Như Lai.
29/7/2016
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét