NGHI VẤN 1
BUỔI HỌC THỨ 13
NHÓM HỌC GIÁO LÝ PGHH
HỎI
VỀ CHÁNH KIẾN
Hỏi: Đức Thầy luận về bát chánh,
chánh kiến được Ngài giải thích là thấy, xem xét, đúng theo sự
thật. Thưa khi xem xét đúng theo sự thật ví dụ tôi thấy một người ăn
trộm hay chuyện gió trăng ngoài hôn nhơn tôi có được nói và tư duy
đúng theo đó không?
Đáp: Điều nầy khá quan trọng, cần
phải nghe theo sự nhắc nhở của Đức Thầy:
“Trí linh mẫn nhìn xem các chuyện,
Phải đừng cho lầm lạc nẻo tà.
Dầu việc người hay việc của ta,
Nên phán đoán cho tường cho tận.
Tội với phước xét coi nhiều bận,
Mới khỏi lầm tà kiến chen vào”.
Học biết và tu chánh kiến để khỏi
lạc vào tà kiến, còn chuyện thấy có mà nói không thuộc về vọng
ngữ là chính. Nhưng ta thấy sự thật như vậy thì phải trông vào “trí
linh mẫn” của hành giả phán đoán cho tường tận là thế nào. Linh mẫn
khác với minh mẫn; minh mẫn chỉ cho sự thông minh sáng suốt còn linh
mẫn cũng sáng suốt thông minh nhưng có thêm sự linh diệu, linh thiêng
khi hành giả đã đạt đến một trình độ tu tập đúng đắn. Nói một
cách khác, linh mẫn là trí đã được gột rửa từ tâm thanh tịnh, khinh
an không hoặc nhẹ đối trị vật chất cảm tình, pháp môn… để linh diệu
đời sống do đó mới có khả năng xem các việc mà không lầm lạc.
Dùng trí linh mẫn phán đoán sự
thật bằng đưa ra câu hỏi ví dụ: có đặt sự thương ghét, ganh tị đối với
người ta bắt gặp họ trộm cắp hay gió trăng ngoài hôn nhơn không? Nếu
không thương ghét mà thấy là tâm hồn ta không động về cái thấy, giống
như hằng ngày ta thấy biết bao nhiêu là chuyện nhưng ta không đặt để
vào lòng sao chuyện của người nầy ta lại để? Ta có vấn đề với
người đó hay vì ta lúc nầy không tinh tấn tu hành bị vọng tâm lấn
lước, trí mờ ám bản ngã lôi cuốn vào những chuyện không đâu.
Thấy, xem xét đúng theo sự thật, ta
không có vấn đề thương ghét với những kẻ làm tội mà ta gặp. Đừng
động tâm đến họ và việc làm của họ, hãy lo tu điều trị thân tâm
chừng ai hỏi ta có thấy người đó làm việc tội lỗi, hư thân thì ta
hãy mở miệng nói về việc đó, đừng tự động khai chuyện khi chưa ai
hay, chưa ai hỏi mà cứ đi rao bán danh dự người khác.
Thấy ta nói thấy nghe ra còn được,
nhưng ở vào cái thấy không lợi cho người tu mà tư duy về chúng sẽ bị
mất phước, gặp bất lợi hoài hoài. Người tu mong thấy biết tất cả
nhưng không nên thấy sự lỗi lầm của người khác
Hỏi: Đức Thầy giải thích về Chánh
Kiến là thấy, xem xét đúng theo sự thật, nhưng những sự thật để
thấy không còn phiếu giễu trước mắt nữa mà nó vẫn còn tồn tại
trong tâm, chánh kiến có chịu trách nhiệm với cái thấy còn tồn tại
trong tâm không?
Đáp: Tất cả sự dạy đạo đều đi từ
hình thức bên ngoài, có ghi nhận sự học đạo từ bên ngoài mới truyền
vào tâm thức thì chánh kiến sẽ hoạt động suốt từ bên ngoài lẩn bên
trong, trách nhiệm là đương nhiên. Xưa Sư Trí Thường đến học đạo với
Mã Tổ, Tổ dạy có một câu “Phật tức tâm” mà ngộ được Phật lý, Ông
một mình lên núi Đại Mai thiền định, chọn câu Phật tức tâm làm công
án, tu suốt trong tâm. Hôm nay chúng ta cùng học giáo lý đây mọi người
đều thấy nhau ở hình thức mặt mày, nói năng, đi lại… nhưng nhận thức
về cái thấy nó thuộc về trình độ giác ngộ sâu cạn cao thấp không
đồng. Có người đọc thấy câu giảng là ăn năng thức tỉnh ngay, Khi thức
tỉnh việc đời họ có thể buông bỏ hết tất cả để một mình vào chùa
hay sống quạnh hiu trên núi non hoang vắng để mà dành hết thời gian
cho việc tu. Trái lại cũng có người đọc thấy câu Kinh Giảng ấy ý
muốn hơi hơi, tu niệm hàng hai, tu niệm cũng ham mà có tiền nhiều
cũng thích. Đọc câu “Sắc tức thị không” giải thích cái gì cũng không
không, nhưng không muốn nó không.
Khi nhìn về một người có thói quen
nặng về tình cảm, sắc đẹp, tri thức nặng về tình cảm thì ta đặt
tình cảm lên hàng đầu ngoài ra đều là phụ thuộc, có thể không cần
thiết như sự cần thiết ta đang mong đợi chiếm điều mến mộ thương yêu.
Muốn mời một người nào đó cộng tác chung hay nhờ sự giúp đỡ của
họ, gặp nhau qua tiếp chuyện đôi câu thấy họ khô khan tình cảm là
không thích, chưa khởi đầu câu chuyện thì lại bỏ cuộc. Biết đâu họ
là người có hành sử đặc biệt không thiếu không dư, họ không có thói
quen gió đẩy gió đưa cho vừa lòng bạn cho người ta cứng ngắt; cứ
lòng vòng mãi bên ngoài những chuyện không đâu, rốt cuộc đánh rời
mục đích.
Mục đích của ta là mời cộng tác,
nhờ giúp thì ta cứ nói ra nguyện vọng của mình, sao lại khắc khe
với người tiếp chuyện nói năng không thiếu không dư. Thế là đến với
họ chỉ qua chút chuyện giáo đầu thì ta đã thay đổi mục đích, bỏ suy
nghĩ về sự hợp tác nhờ nhỏi một con người mà ta cho là cứng ngắt
đó sao?
Đây là việc khấy động nội tâm,
chánh kiến cũng phải chịu trách nhiệm với sự khấy động trong tâm từ
cái thấy bên ngoài. Khi ta đi vay mượn tri thức để đáp án một đề tài
có tính sử học hay văn chương nhưng đến với Thầy cô giáo chuyên môn mà
thấy họ quá đẹp và có những nét gợi cảm gợi tình trong khi ta rất
sợ sắc đẹp và tình cảm nam nữ chinh phục ta thì ta lại muốn khước
từ sự học hỏi lịch sử, văn chương. Có lẽ ta có cái bệnh “sống đọc
thân” mà ngừa trước đón sau chứ ai sanh ra không muốn mình đẹp. Học
Phật thì ta đã biết phước tướng con người đều do nhân quả, kiếp
trước họ làm cái gì rất đẹp nên kiếp nầy họ đẹp. Họ đẹp tự nhiên
còn gợi cảm gợi tình là tại vì tình cảm trong ta cũng nhớm động
không hay, đổ tội họ chinh phục là không đúng. Có ở học, lòng nghiêng
về sắc đẹp, tình cảm bằng thích hay không thích thì sự học cũng
phai lợt, chánh kiến về sự học không còn nguyên vẹn như ý thức ban
đầu.
Mắt thấy một lần trong vài giờ
hoặc vài phút ngắn ngủi rồi thôi nhưng tâm thức chứa đựng và phân
tích cái thấy tràng giang đại hãi chẳng những vài giờ mà còn có
thể ngày qua ngày. Nếu không có sự can thiệp của chánh định thì cái
thấy như khỉ chuyền cây, ngựa buông cương đảo lộn trật tự từ chánh
kiến qua tà kiến.
Ta trở lại đầu đề, chánh kiến là
thấy, xem xét đúng sự thật; thấy đúng đễ có tư duy đúng, nói đúng,
hành đúng, tiến đúng, niệm đúng … ngược lại, một đi đầu đã sai thì tất
cả đều sai. Như thế chánh kiến có ảnh hưởng cùng khắp, không phải
chỉ dùng mắt thấy đúng theo sự thật mà tâm thấy cũng đúng theo sự
thật. Nếu tâm ta còn thấy thương ghét, thấy tình cảm vật chất níu
trì là đúng sự thật theo đời nhưng không dúng theo sự thật của người
tu. Sự thật của người tu là quán thân bất tịnh, quán thọ thị khổ;
quán thân bất tịnh để không bị các cái đẹp làm mê hoặc, quán thọ
thị khổ để không cầu sống lâu tránh sự hèn nhác khi đem thân dùng
vào việc tu thân hành thiện.
Đức Thầy giải thích về công năng
của chánh kiến:
“ Chẳng thế, nó còn giúp cho ta hiểu
biết được các điều tục lụy trong trần, biết được lẽ nhiệm mầu của
tôn giáo, khiến ta xua đuổi các điều tà mị, bỏ các sự say mê trở về
với đạo lý, thoát đọa hồng trần. Nó tránh cho ta tất cả sự giả
dối và nhờ thế nên ta khỏi bị lạc lầm trong khi hành đạo”.
Sự rộng khắp của chánh kiến như
Đức Thầy dạy về hiện thực là thấy, xem xét, đúng theo sự thật để
lấy tư cách ở đời “ Dầu của mình hay của kẻ khác” ngoài ra nó còn
“ Hiểu biết các điều tục lụy trong trần” để không say mê mà trở về
với đạo lý: chánh kiến suốt trong tâm.
Chánh kiến với ý nghĩa rộng sâu,
sự trình bày của tôi nếu vấn chủ không hỏi gì thêm thì xin cho qua
câu khác.
(còn tiếp)
18/4/2016
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét