CẢI
LỆNH THẦY
Tôi đang uống trà sáng và định bụng xong cử trà thì ra
tay săn sóc vài chậu kiểng thiếu đất mà cỏ lên um tùm. Rất cần làm
cho hoa kiểng trước sân có dáng vẻ mĩ miều chuộng mắt để lúc nhàn
nhã thảnh thơi được chút tiêu khiển mát lòng. Chưa kịp đem dụng cụ
như chéc, thúng, ra tôi bổng nhớ hai vị đại lão đồng đạo tiền bối ở
xã Mỹ Hội Đông, nhắm lại con đường từ xã Kiến An quê tôi đến chỗ hai
cụ cách khoảng bảy cây số, Hon Da đi 15 phút là tới. Lòng tôi ngả hẳng
về hai lão tiền bối, không còn đếm xỉa vì tới chuyện săn sóc kiểng
hoa. Tôi rủ thêm người cùng đi, có tổng cộng bốn huynh đệ.
Chúng tôi đến nhà Ông Lâm Thế Xương
vào một buổi sáng đẹp Trời, thân thế vị đại lão nầy là con của cụ
Ông Cả Mười, đã đem hiến tuổi thanh xuân theo chân Đức Thầy bảo vệ
PGHH. Đại lão tiền bối giờ già lắm nhưng hôm chúng tôi đến viếng không
thấy Ông trong nhà, hỏi ra mới biết Ông ấy được con cháu dìu ra viếng
những mộ gia tộc ngoài vườn. Chúng tôi nghe nói không ở đợi, hỏi
đường đi ra mộ, nghĩ rằng có khi gặp Ông ở ngoài vườn sẽ dễ dàng
tìm hiểu Ông hơn. Vừa đến chúng tôi liền vái chào Ông, thấy nơi đây
cũng thoáng khí, mát mẻ, chúng tôi mời Ông ngồi xuống thềm mộ nghỉ
khõe, tạo cơ hội tôi nói:
Thưa Cụ! Chúng cháu đến cụ, trước
là vấn an sức khõe, sau xin bộc bạch với cụ đôi điều. Thấy cụ còn
đi ra vườn thăm mộ, trông già mà sức khõe cũng không tệ, chúng cháu
mừng lắm.
- Thế bộc bạch những gì nào? Ông
hỏi.
- Dạ, được biết lúc trẻ cụ có
thời gian gần gủi Đức Thầy chắc là có nhiều hay ho về Ngài, xin cụ
hoan hỉ kể lại cho đoàn hậu tấn chúng cháu biết qua để chiêm ngưỡng
thánh hạnh, thánh tích của giữa Đức Thầy và cụ
- Điều nầy có nhiều người đến hỏi
rồi nhưng tôi không muốn trả lời.
- Có gì không phải sao cụ?
- Xưa nay hễ tôi không muốn nói thì
thôi đâu cần phải trả lời vì sao. Nhưng nay tôi nghĩ cũng nên tỏ bày
vì sao tôi không nói. Xét những chuyện em cháu hỏi có liên quan với
thời cuộc sợ không mấy tốt cho tầm nhìn an ninh của người ta mà em
cháu bị khó dễ.
- Thưa không sao đâu cụ _ tôi nói _
con mắt an ninh giờ đối với đạo PGHH có phần nhẹ hơn nhiều nếu đem so
với những năm còn Ban Quân Quản; hơn nữa đây là chuyện xưa tích củ,
là những thứ thuộc về kỹ niệm, ai cũng có.
Chúng tôi năn nỉ lắm lần nhưng Ông
cứ từ chối, sau cùng một anh bạn đi chung góp miệng:
- Gia đình cụ xứng đáng làm một
tấm gương soi sáng tinh thần PGHH, Cụ, Cụ Út, và Cụ Ông Cả Mười đã
cống hiến đời mình rất nhiều cho đạo, thật đáng khâm phục! Cháu tin
cụ thông tuệ hơn chúng cháu về lý vô thường, tấm thân giả tạm. Với
tuổi tác và sức khõe của cụ bây giờ thì chỉ dấu “mãn kiếp hồng
trần” còn không xa nữa, những vì cụ biết về Đức Thầy rất là trân
quí, nếu cụ ôm những trân quí đó xuống tuyền đài để bỏ thì rất là
uổng những thứ chúng cháu cần. Xin cụ hãy vì chư đồng đạo thế hệ
trẻ tuổi sau nầy mà ban cho chút ân huệ.
Sau kiểu lý luận của anh bạn đi
chung, chúng tôi nhìn, giống như mở được ổ khóa, cụ có hơi vui vẻ,
mỉm cười, đồng ý kể cho chúng tôi nghe câu chuyện Ông “ Cải Lệnh
Thầy” như sau:
Phía Việt Minh mời Đức Thầy đi
họp, hơn mười tín đồ xin cùng đi trong số đó là có tôi. Đức Thầy
đồng ý cho những tín đồ đi cùng nhưng Ngài ra lệnh không một ai được
mang theo súng cá nhân. Lệnh ban ra thì các huynh đệ đều tuân thủ, ai
cũng đi ra mình không. Tôi thấy rất lo ngại nếu như phía Việt Minh trở
mặt họ tấn công mình thì sao, họ có thể dở trò … Để bảo vệ Đức
Thầy và có thể an tâm hơn tôi vào phòng kín lấp đạn vào cây súng Lô
Lô loại nhỏ, cởi trần nịch súng sát hông bụng, áo ngoài phủ vào
không thấy nổi lên dấu cợm. Việc nầy có Trời biết, Phật biết, đừng
trông ai có thể phát hiện.
Buổi họp diễn ra suôn sẻ, không có
chuyện động phạm giữa nhau. Phía Việt Minh rút về hết còn lại Đức
Thầy và hơn mười tín đồ đang loay quay, bỗng Đức Thầy kêu tôi lại,
Ngài vổ nhẹ bàn tay lên vai tôi, nói:
- Sao tôi không cho mà Ông dám cải?
Tôi hết sức là mắc cở không dám
nhìn thẳng Đức Thầy. Mọi người nhìn tôi với vẻ mặt đầy lo sợ như
thể tôi phạm phải một điều vì quan trọng. Tôi không biết trả lời ra
làm sao về việc tôi cải lệnh của Ngài giấu súng ngắn trong mình.
Đức Thầy nói tiếp:
- Phía người ta về hết rồi, Ông mau
đem ra cho tôi coi!
Tôi dạ, liền kéo vạt áo lên lôi ra
cây Lô Lô ngắn nhỏ đưa trình Đức Thầy. Ngài tiếp nhận cây súng và
cầm một tay giơ cao họng súng lên trời rồi Ngài để súng trên bàn,
nói:
Đã tôi ra lệnh, ở đây đông người ai
cũng tuân hành đi không mang súng chỉ có mình Ông gạt bỏ ngoài tai.
Bạch Thầy, con xin chịu tội bất
tuân mệnh lệnh, nhưng lòng con quá thương kính Đức Thầy, nên làm ra tư
cách người bảo vệ.
Chỉ một mình Ông có súng _ Đức
Thầy nói _ kình địch với người ta được sao?
Bạch Thầy, thắng hay thua con chưa
nghĩ tới, nhưng vì để bảo vệ sự an toàn cho Ngài, có vào trong biển
lửa cũng không ngại.
(Viết theo tường thuật của Ông giáo
Đặng Quang Lơ)
Phụ bình:
Đức Thầy là Phật bên cõi Tây Phương
lâm phàm độ thế, mục tiêu là giải thoát chúng sanh ra khỏi sau nẽo
luân hồi mờ mịt. Hềm vì nhơn loại căn tánh bất đồng, kẻ thích tu
hành người mê mang theo danh lợi quyền tước. Ngay trong việc nước non
còn có nhiều tổ chức, khuynh hướng bất đồng nghị kỵ lẩn nhau, đang
tâm xâu xé giữa tình đồng bào cốt nhục để dành quyền lợi.
Xưa Đức Thầy có quan hệ với những
tổ chức yêu nước hay tham chính là muốn đem đạo vào đời, như Ngài đã
phát lời tuyên bố đăng lên tờ báo Quần Chúng ngày 14/11/ 1946 như sau:
“Đối với toàn-thể tín-đồ
Phật-Giáo tôi vẫn không quên rằng tôi là một đệ-tử trung-thành của
Đức Phật Thích-Ca, tôi tin chắc rằng giáo-lý giải-thoát chúng-sanh
chẳng những được truyền-bá ở thiền-lâm mà còn phải thực-hiện trên
trường chánh-trị”.
Có như thế để những ai vào con
đường chánh trị cũng phải biết đạo đức, làm tròn nghĩa vụ với
quốc gia, bổn phận với đồng bào dòng giống Lạc Hồng, thu phục nhân
tâm mới là một nhà chánh trị giỏi. Làm được điều đó với những
người ngoài tổ chức thì trước hết Đức Thầy phải tự điều hành trong
nội bộ thành một guồng máy phải thật sự không nghi kỵ, chất chứa
oán thù trong khi bàn luận đi đến hợp tác sự cứu nước. Đức Thầy trả
lời cuộc phỏng vấn của Ông Hồn Quyên có đoạn như sau:
“… Theo những báo-cáo mấy hôm nay
thì sau khi tôi tham-chánh, quần-chúng của tôi bắt đầu có sự
tín-nhiệm ở nơi sự hiệp-tác giữa
đôi bên và sự tham-chánh của tôi cáo-chung những tuyên-truyền
láo-khoét, phao-vu từ trước tới giờ. Những sự tuyên-truyền đó đã
làm cho toàn-thể bị tủi-nhục”.
Trường hợp Ông Lâm Thế Xương giấu
súng trong mình không phải vì ham ăn thua mà vì nghi ngờ. Đức Thầy
điều khiển vô hình cho trong cả cuộc họp đi đến ôn hòa, làm khẩu
súng ngắn của Ông Lâm Thế Xương không có cơ hội để nổ.
03/9/2016
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét