YÊU MẾN
Sự học hỏi dù ở lãnh vực nào
cũng rất cần thiết nhưng quá ham kiến thức gặp ai cũng yêu cầu người
ta nhồi nhét vô cho mình, học hỏi những điều không bổ ích cho môn học,
đôi khi làm học trình chậm kết quả.
Một người từ lúc trẻ có ước mơ
sống độc thân, thích ở riêng nơi vắng vẻ tập phản tỉnh tâm hồn mà
kết giao với người thích đông vui, vợ chồng, họ bày tỏ sự đông vui,
vợ chồng, nghe hoàn toàn ngược lại với sở thích của ta, đáng lẽ ta
không tới lui thân mật, thôi sớm đi để đở mất thời gian vào những
chuyện không đâu, mà tại cái gì đó níu ta lại, có thể là tình cảm
ăn sâu, hoặc họ đã giúp đở ta rất nhiều về đời sống vật chất nên
chưa thể từ chối. Đường đi về Phật Quốc trải dài mười muôn ức Phật
Độ, thật quá xa, nếu hành giả bị tình cảm hay vật chất ghì níu
không giãy sứt thì…
Người không ăn thịt cá đi qua chợ bán
thịt cá, mùi hôi tanh khiến ta bụm mủi đi riết qua nhưng nếu ta kết
giao và thường đến chơi trong khu chợ thịt cá riết sẽ quen hơi, không
cảm thấy khó chịu khi vào chợ bán thịt cá nữa. Không tanh hôi không
có nghĩa là khu chợ đó hết hôi mà do ngửi nhiều quen hơi thành ra
bình thường. Cũng có thể như vậy, ta tự đề ra lập trường độc thân,
tập trung sức mạnh tinh thần gánh vác đạo Pháp, lập trường tịnh tu
nơi thanh vắng mà giờ sống gần gủi với những kẻ quá yêu đời, họ
nói ra toàn cái chuyện vợ chồng, tình duyên trai gái, mèo mở, tiền
bạc vui chơi. Rủ nhau đi làm từ thiện, cái tính vui chơi, yêu đời,
tiền bạc, mèo mở hay bày ra giành đài, giành sân đôi khi bung ra những
chuyện thằng cha nầy, con mẹ nọ… làm cho việc làm từ thiện chịu
thiệt thòi về ý nghĩa, còn chưa nói, lập trường tịnh tu nơi thanh
vắng đã có ít nhiều lung lay…
Đến họ, lúc đầu ta không muốn nghe
thấy điểm sở trường của họ nhưng vì một lý do gì đó ta phải tự ép
mình ngồi bên họ một cách miễn cưỡng nghe họ nói những chuyện những
điều vô bổ cho sự học hỏi của ta. Điều trái ngược nầy nếu ta không
sớm dứt để lâu ngày sẽ bị nhiễm nặng. Đó là lý do cổ nhân đã báo
trước “Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng”. Còn theo Đức Tôn Sư, Ngài
nói rằng:
“YÊU những kẻ tâm đầu ý hiệp
MẾN những ai biết kiếm đạo mầu”.
Hai câu giảng dẫn trên một câu có
chữ “yêu” một câu có chữ “Mến”. Câu có chữ yêu là yêu ai? Câu có chữ
Mến là mến hạng người nào? Lời Đức Thầy dạy được kết tập, đề tựa
là Sám Giảng Thi Văn, ta đem chứng minh là sự chứng minh có căn cứ
trên sách vở, nếu ta yêu mến ngoài cách chỉ dẫn của
sách vở mà đạt được sự YÊU MẾN tốt đẹp chắc phải vất vả lắm.
Có những bạn rất thương người,
thấy ai đi trong mưa ước ác lạnh lẽo thì chạy đến cứu mưa hỏi han
thân mến nhưng nông nổi quá, đến cứu mưa cho người ta mà mình không
mặc áo mưa, cũng không đem theo chiếc áo mưa nào dư cho người mắc mưa
mặc. Rốt cược, kẻ bị mưa người đi cứu mưa đều bị mưa làm ước.
Thường thì người tu, lo dưỡng đức
từ bi nhiều hơn việc làm thế nào để phát sanh trí huệ, phóng tâm
thương hết những ai nghèo khổ, bệnh tật, nạn tai… xót xa lòng, muốn
giúp hoặc trông có ai đến giúp. Nhiều vị còn đi xa hơn, không phải vì
kẻ nghèo đói, bệnh tật, nạn tai; họ vui vẻ bình an trong vinh hoa phú
quí và thừa tiền họ say sưa với vật chất, các vị cho đây là sự sa
đọa và vì thế la cà đến đó đánh thức họ trong khi các vị không quan
tâm sự đánh thức chính mình để xem mình đủ khả năng hành động lợi
lạc đó không. Ngày nào có được việc làm từ thiện, từ bi ta cho như
vậy là thể hiện yếu tính đạo đức, tu hành. Thực chất của đạo đức
và sự tu hành là nâng cao sự nghiệp trí tuệ trên các sự nghiệp đạo
và đời. Con đường ta đi làm từ thiện cũng phải có sức sáng soi tỏ
rõ việc làm mới không bị lẩn khuất trong bống tối vô minh. Dầu sao,
việc làm có ánh sáng tỏ rõ sẽ đạt kết quả tốt hơn người làm việc
trong đêm tối, không thấy gì. Người ta lựa một đống đồ để theo thứ
tự, rất cần có ánh sáng phơi bày chứ đêm tối, tối tăm thấy gì mà
lựa. Chẳng phải Đức Thầy cũng đã dạy ta lựa đó sao:
“Ai ai cũng rán xét mình,
Nếu còn tánh xấu thì rinh ra
ngoài.”
Ta yêu mến những người gặp hoàn
cảnh khó khăn nghèo đói, bệnh tật, nạn tai… điều nầy chỉ xảy ra ở
trường hợp nào đó xong rồi mất, nhưng yêu mến trong đối đải, kết giao
bạn bè thân mật không phải là chuyện qua đường, ta muốn quên cũng khó
được. Thế nên, Đức Thầy đặt tín đồ vào vị trí yêu chỉ là “Yêu
những kẻ tâm đầu ý hiệp” thôi. Tâm đầu ý hiệp là cùng nhau một suy
nghĩ, sở thích, phương pháp tu hành. Tính đồng thuận như vậy không gây
xáo trộn tinh thần thì tinh thần mỗi lúc được tập trung sức mạnh,
không dễ bị đời lôi cuốn, xâm nhập. Với kẻ tâm không đầu, ý không hợp
ta có quyền thôi đi sự chơi thân với họ để tránh ảnh hưởng “gần mực
thì đen”. Bằng như ta có ý nghĩ cao thượng, muốn dẫn dắt kẻ từ thuở
giờ nghe nói tới đạo là không ưa, tu hành không thích; nếu chỉ là ý
nghĩ cao thượng mà cao thượng chưa để nằm lòng thì hãy gò tu cho
điều cao thượng ấy nằm lòng cái đã, vì những điều cao thượng để
nằm lòng sẽ có sức mạnh hơn nếu chỉ là ý nghĩ. Đến khuyên tu những
người còn đam mê danh vọng, ngủ vùi trong vật chất vinh hoa, ta có ý
nghĩ không mê vật chất, danh vọng nhưng thật sự trong lòng mình chưa
dứt hẳng chúng nó, ta chỉ làm được cái việc “tạm dừng” thôi, còn
lúc nào tiếp tục thì chưa biết. Phá rừng mà người ta chỉ làm cái
việc mé nhánh cưa cây, không đào lên tận gốc thì cái chỗ mé chánh
cưa cây đâm ra chồi tược mới và sẽ thành rừng trở lại.
Ta biết ta đến làm thân đây là
không phải chỗ tâm đầu ý hiệp thì ta nên coi lại mình trước khi đi.
Coi mình còn thiếu cái gì để sắm đủ cho mình những thứ cần thiết
bảo đảm sự bình an khi ta la cà với người ngoài sách vở hướng dẫn
để tránh đi sự lôi cuốn ngược lại: chán đạo thèm đời.
Lập trường sẵn và chí đã quyết
thì căn cứ theo đó mà hành động. Hạn chế cái bệnh ham học, đi học
hỏi cho nhiều dễ mang tính phân vân, sức mạnh tinh thần bị phân tán
dầu là phân tán bởi pháp môn thì pháp môn bị phân tán đều là sự
hiện diện của phiền não lộng hành. Trong lúc ta tu Tịnh Độ sự cần
thiết là chánh tâm niệm Phật, những pháp khác xen vào trong lúc hành
giả trì lòng lục tự Di Đà chúng đều là phiền não đến chọc phá.
Ví dù bạn tâm đầu ý hiệp có xuất hiện trong trí bằng những lời
lẽ, ý kiến hay ho mà trước đây ta tâm đắc cũng đều là sự hiện diện
của phiền não lấn chiếm tiến trình niệm Phật Tịnh Độ của mình.
Trong tám con đường chánh của Phật dạy đi đến giải thoát có ba thứ
chánh thuộc hệ tư tưởng: Chánh Tư Duy, Chánh Niệm, Chánh Định, mỗi
thứ chánh vận hành theo chức năng riêng, Chánh Tư Duy có vai trò làm
cho suy nghĩ chơn chánh, dẹp bỏ những suy nghĩ không chơn chánh. Chánh
Niệm: theo sự giải thích của Đức Thầy là ghi nhớ chơn chánh, đạt
đến chánh niệm, nhất tâm bất loạn. Cứu độ một hành giả tu pháp môn
Tịnh Độ là chánh niệm chứ không phải chánh tư duy. Vì thế khi miệt
mài hành đạo niệm Phật cần chánh niệm chứ không cần sự có mặt của
chánh tư duy.
14/01/2018
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét