LỤC TỰ TRÌ TÂM
Hôm rằm qua có một số khách đi
chùa bái Phật, tiện dịp ghé thăm và yêu cầu tôi cho một món ăn tinh
thần. Tôi chưa biết nói gì làm vui lòng khách thì có người khác đưa
ra hai câu Sám giảng của Đức Thầy làm câu hỏi hỏi tôi, hai câu ấy là:
“Chữ lục tự trì tâm bất viễn,
Thì lâm nguy có kẻ cứu mình.”
Đáng lẽ đặt câu hỏi xong thì thôi
chờ giải đáp đàng nầy chú ấy diễn lý: Người học Phật nhất là
hành giả của pháp môn Tịnh Độ, niệm Lục Tự Di Đà cầu vãng sanh
Phật Quốc ngay sau khi mãn kiếp hồng trần phải được y cầu. Niệm Phật
A Di Đà thì Phật A Di Đà cứu độ, Đức Thầy dùng từ “có kẻ cứu
mình”. “kẻ” là ai mà có khả năng cứu lâm nguy cho nhân thế? Chẳng lẽ
Đức Thầy gọi Đức Phật A Di Đà là “KẺ “? Nhờ ông cho lời giải thích để
tôi mở được gút lòng.
Nghe đặt câu hỏi với lý luận dài
tôi có hơi lúng túng với ý nghĩ lạ lùng của vấn chú. Chú giải về
đề “Chữ lục tự trì tâm bất viễn, thì lâm nguy có kẻ cứu mình” xưa
nay các vị giảng viên lớp tiền bối, trung bối đã giảng giải quá
nhiều, đáp số tương đối, nhưng hỏi cái kiểu “bắt từ” như vầy tôi chưa
từng nghe thấy bao giờ. Bị hỏi ý lạ, lòng chưa có câu trả lời nên
tôi cố kéo dài thời gian để có may ra gở nước bí, không thì chào
chua chứ không đáp miễn cưởng. Tôi hy vọng sẽ có kiến giải thích
hợp. Đúng là có kiến giải, tôi đáp:
Đạo hửu đặt câu hỏi có nhiều vế,
trước hết tôi trả lời thẳng thắng vế hỏi “Chẳng lẽ Đức Thầy gọi
Đức Phật là kẻ”? Xin đáp: “Kẻ” không phải là Đức Phật và vì thế
Đức Thầy không gọi Đức Phật là kẻ. Vậy kẻ ấy là ai chúng ta từ từ
bàn nha.
Như ai cũng biết thế gian là cõi
khổ Đức Thầy lâm phàm dạy đạo bằng đưa ra phương pháp niệm Phật, tu
cầu Đức Phật từ bi tiếp dẫn vong linh được thoát chốn mê đồ vãng
sanh miền Cực Lạc. Tiếp dẫn vong linh hay cứu độ vong linh là chỉ xảy
ra trong giờ phút có ai đó thoát trần, nó khác với cái gọi là “lâm
nguy” hay “nạn tai”. Chữ vong linh tức nói hồn người chết. Người ta
không muốn thân nhân mình hay bạn bè yêu quí chết đi bị đọa xuống ba đường
dữ, sáu nẽo luân hồi chịu hết hình phạt bởi nhân quả phải đầu thai
lên cõi dương gian làm người, hay vì quá si độn phải sanh vào loài
cầm thú. Dầu người thân của mình lúc sinh tiền có tu hay không tu, ác
nhiều thiện ít, người biết đạo cũng tổ chức đặt bàn cầu Phật tiếp
dẫn và cứu độ vong linh thoát chốn mề đồ vãng sanh miền Cực Lạc.
Tiếp dẫn hay cứu độ vong linh chỉ có Đức Phật mà nói cho chuẩn là
Đức Phật A Di Đà mới có khả năng đưa người từ chốn hồng trần sanh
qua Cực Lạc. “Kẻ” không phải ngụ ý là Phật mà là người trong cõi
thế gian, dầu là bậc tu hành chơn chánh lắm công đức và trí tuệ minh
mẩn cũng không có khả năng tiếp dẫn vong linh một chúng sanh thoát chốn
mê đồ về Phật Quốc bởi bậc tu hành nầy chưa từng ở Phật Quốc thì
không có lý cứu độ vong linh về Phật Quốc như về nhà của ông ta
được. Cực Lạc là quốc độ của Đức Phật A Di Đà, Ngài mở bày phương cách
dạy chúng sanh niệm danh hiệu của Ngài đến nhứt tâm bất loạn, tức
trong lúc niệm Phật, NAM MÔ A DI ĐÀ PHÂT chỉ là NAM MÔ A DI ĐÀ PHÂT
thôi, không để xen vào niệm vì khác ngoài sự niệm Phật. Niệm Phật
có những niệm khác xen vào là không “nhứt tâm”, tâm tâm vọng khởi, là
“loạn” chứ không phải “bất loạn”. Khi chúng sanh tu đạt chỗ yếu chỉ
của pháp môn Ngài dạy thì Ngài cứu chứ “kẻ” nào cứu được.
Cứu độ lúc “lâm nguy” hay xảy ra
“nạn tai” chỉ là cứu an tạm thời cho qua lúc gặp chuyện khó khăn bức
hại, câu “thì lâm nguy có kẻ cứu mình” hay “Nạn tai cũng thoát như
không” (lời Đức Thầy). Nếu tôi nói “kẻ” đó không phải là Phật nhưng
Phật xai tới cứu người vượt khỏi hiểm nguy thì quý đồng đạo đây có
tin không? Chuyện Trần Huyền Trang Tam Tạng sang Đông Độ thỉnh Kinh,
người ta đã đưa vào phim ảnh phổ biến rộng rãi, đâu đợi người tu mài
mò sử nghiệp Phật Giáo mới để lòng mà cả người đời cũng thích.
Trên đường thỉnh Kinh, Trần Huyền Trang gặp biết bao tai nạn và tai
nạn nào cũng thừa chết nhưng đâu có chết. Bồ Tát Quán Thế Âm khiến
Tề Thiên Đại Thánh, Bát Giới, Sa Tăng ba vị đệ tử thuộc dạng tài
phép hơn người theo phò hộ. Nếu gặp trận lớn, đụng tới mấy con yêu
có nhiều phép thuật, ba đệ tử tác chiến không dẹp nổi yêu tinh thì
Tề Thiên dùng phép bay lên tìm ngọc hoàng Thượng Đế hay Đức Phật Tổ,
Ngọc Hoàng xai thiên binh thiên tướng xuống cứu “thì nạn tai của Trần
Huyền Trang cũng thoát như không” thôi. Đức Thầy dạy đạo khuyến tu có
kể sự tích của Trần Huyền Trang đi thỉnh Kinh với nhiều chướng ngại
mà nhờ kiên trì, lòng tưởng Phật, niệm niệm nối liền thoát qua biết
bao nhiêu cửa tử:
“Lúc Tam Tạng Tây Phương quyết đáo,
Bị lào yêu làm bạo lắm phen.
Đức Từ Bi phải lộ trắng đen,
Lôi Âm Tự cũng đi đến chốn.
Đi dọc đường yêu tinh làm hỗn,
Thấy Đường Tăng thơm thịt mướn ăn.
Nhờ môn đồ Bát Giái Sa Tăng,
Với Đại Thánh Tề Thiên cứu vớt.
Lòng sáu chữ nhớ không có ngớt,
Thì nạn tai cũng thoát như không”.
Đức Thầy viết Sám Giảng Giáo Lý
nhắc nhở người tu gìn lòng “Ai coi qua xin đừng bỏ lảng, gắng công
trình vạch lá tìm sâu”. Nhờ vậy hễ ai xem qua để vào lòng, có còn
ở ngoài nữa đâu mà quên? Từ khi để lòng mới có cơ hội vạch tìm ý
nghĩa như “vạch lá tìm sâu” vậy; có vạch lá tìm sâu mới biết con sâu
trốn đâu trong lá để tự trị, mặt khác, khi sâu đã hóa nghiệp hoành
hành khiến ra tai nạn: nghèo đói, bệnh tật, lâm nguy, sẽ chuyên niệm
Phật hành thiện, nguyện cầu Phật Trời
hộ độ ngay lúc bệnh tật, lâm nguy. Ta không thấy Phật Trời hiện
thân đến độ nhưng có kẻ khác đến giải quyết tháo gở tai nạn, nghèo
đói, bệnh tật, lâm nguy cho ta. Chu yện “Có kẻ cứu mình” thế gian nầy biết bao
nhiêu là chuyện, tôi xin kể một chuyện điển hình:
Xưa ông Trần Minh Thiệu (Ba Thiệu) trưởng
ban Phổ Thông Giáo Lý quận Lấp Vò, trước năm 1975 thuở đó PGHH được
tự do tôn giáo một cách đúng nghĩa, sinh hoạt đạo sự, truyền bá
giáo lý tôn giáo không hạn chế bất cứ nơi nào trong đất nước Việt
Nam. Ông Trần Minh Thiệu chở Sám Giảng và Thi Vă n PGHH
ra miền Trung phát thí, đêm đó ngủ tại tỉnh Nha Trang. Trời chưa sáng
thì ông và những đồng đạo đi cùng được gọi thức để đi ra Phú Yên cho
sớm. Mỗi chiếc xe Hon Da ss 67 đều có chỡ một bao Sám Giảng và Thi Vă n
Giáo Lý, ra tới cận trạm ngoại ô cảnh sát chận lại nhưng không hỏi
giấy tờ tùy thân mà vào quán nước ngồi nhăm nhi tách cà fê bốc
khói. Ông Trần Minh Thiệu thấy sao mà chú cảnh sát quá vô tình vô ý,
kêu lại không hỏi gì lại bỏ đi, ông liền ngay lại quán nước hỏi mấy
chú cảnh sát rằng: Sao không kiểm tra giấy tờ đặng chúng tôi đi đường
xa cho kịp? Tên cảnh sát cười nói: các bác trong Nam ra phải không? Chưa đến lúc
hỏi giấy thì các bác cứ ở đợi, đừng phiền. Chờ cho đến mỏi cả
lòng, ngoài Trời hanh nắng, có chiếc xe nhà binh đi qua thì mấy chú
cảnh sát kêu chúng tôi đi đi. Chạy một chút là nghe tiếng nổ ầm ầm
phía trước, là Việt Cộng đấp mô giật mìn. Bây giờ tôi mới nghĩ ra:
tại sao chú cảnh sát chận giữ xe lại mà không hỏi xem giấy tờ? Cảnh
sát ấy chính là “kẻ cứu mình” không thì mìn của mấy ông Việt Cộng
gài nổ banh xác còn gì.
Tóm lại, cứu độ hay tiếp dẫn vong
linh người thoát chốn mê đồ vãng sanh miền Cực Lạc là Đức Phật A Di
Đà, còn cứu khỏi lâm nguy tai nạn là người với người giúp nhau mà
người cứu tai nạn hiểm nguy có thể là Phật Trời sai khiến “kẻ cứu
mình”, hoặc do người tu gieo nhân lành không thể hưởng quả dữ, gặp dữ
thì dữ cũng hóa lành. Bàn xét như trên Đức Thầy dùng từ “kẻ cứu
mình” trong lúc “lâm nguy” không ám chỉ Đức Phật, đã quá rõ nghĩa.
22/12/2017
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét