BÀN VỀ TU VÀ CHẾT
“Phải rán tu đặng mà chết, chớ đừng để
chết đến mà chẳng có tu.”
Lời của Đức Thầy
Kính chào quý vị! Hôm nay chúng ta
bàn đề tài TU VÀ CHẾT nhá!
Phần đồng người cho rằng tu để
thoát ra khỏi vòng sống chết như Đức Thầy có câu “Tử thần kia đâu
dám dắt hồn, thoát luân chuyển khỏi đeo khổ tử”, nhưng bài có tựa
là “Tư Tưởng” Ngài dạy dường thể khác hơn “Phải rán tu đặng mà
chết, chớ đừng để chết đến mà chẳng có tu” nói câu không hứa hẹn
gì về đắc đạo, vãng sanh mà ai tu cũng mong đợi. Sự bất nhứt nầy
nghĩa là sao?
Một vị nào đó nói rất đúng “Tu
nhơn tích đức già đời cũng chết, hung ác bạo tàn tới số cũng không
còn”. Có tu hay không tu đều chết bởi vì người có tu hay không tu đều
mang thân tứ đại như nhau, có sanh có tử là tự nhiên. Sanh là gốc, tử
là ngọn; nếu không có gốc cây sẽ không có ngọn cây. Thân ta đây là
thân sanh mượn của: Đất, Nước, Lửa, Khí hiệp thành, không tu để tìm
thân Kim Cang bất hoại hoặc Liên Hoa hóa thân hết kiếp chết đi sẽ theo
những thiện ác ta làm mà đầu thai thọ thân khác cũng của Đất, Nước,
Lửa, Khí rồi tới thời hạn cũng chết nữa, chết nữa ... Người tu
hành đúng lời Phật dạy đến đắc đạo hay vãng sanh Cực Lạc, nếu cần dùng
thần thông trụ thế lâu để độ chúng có lúc cũng phải bỏ xác thì
chỉ một lần tử nầy thôi sẽ không còn chịu khổ tử thêm lần nào nữa
đâu. Đức Thầy có câu:
“ Chỉ một kiếp Tây Phương hồi
hướng,
Thoát mê đồ dứt cuộc luân hồi”.
Thân mượn thì tới hạn kỳ phải
trả; trả đây để vãng sanh Tây Phương hay trả để đi theo bánh xe luân
hồi thêm một kiếp khổ khác? Điều nầy do người có tu hay không tu,
hoặc tu ít tu nhiều; tu hết mình hay tu cái kiểu cà lơ phất phơ cho vô
phong trào chứ không nặng lòng về việc trau tâm sửa tánh, Phật Tánh
hay Ma tánh. Đức Thầy viết bài đề là “Thay lời tựa” ta thường gọi
là bài Sứ Mạng của Đức Thầy có đoạn:
“ Trải qua bao kiếp trong địa cầu
lăn lộn mấy phen, tùy cơ pháp chuyển kiếp luân hồi ở nơi hải ngoại
để thu thập những điều đạo học kinh nghiệm huyền thâm, lòng mê si đã
diệt, sự dị kỷ đã tan mà kể lại nguồn gốc phát sinh, trải bao đời
giúp nước vùa dân cũng đều mãi sinh cư nơi đất Việt. Những tiền kiếp
dầu sống cũng là dân quan đất Việt, dầu thác cũng quỉ thần đất
Việt chớ bao lìa. Những kiếp gần đây, may mắn gặp minh sư cơ truyền
Phật Pháp, gội nhuần ân Đức Phật, lòng đà quảng đại từ bi”.
Cứ như đoạn trích dẫn trên Đức
Thầy đã tự sự nhiều kiếp lên lên xuống dưới chốn hồng trần, có khi
làm dân quan đất Việt có khi làm quỉ thần đất Việt, những kiếp gần
đây may mắn gặp được minh sư cơ truyền diệu pháp mà tu hành đến chốn
“Lòng mê si đã diệt, sự dị kỷ đã tan” và tận hưởng “muôn ngày vô
sự, lóng sạch phàm tâm, sao chẳng ngồi nơi ngôi vị hưởng quả bồ đề
trường thọ mà còn len lỏi xuống chốn hồng trần để chịu cảnh chê
khen?”
Đức Thầy đã “thoát luân chuyển
khỏi đeo khổ tử, kim thân thị hiện dứt trừ tử sanh”. Thân hiện tại
của Ngài con của Đức Ông Đức Bà chỉ là mượn xác, như những câu Ngài
nói:
“Từ ngày mượn xác trần hồng đáo
lai”
“xuống mượn xác từ năm Kỷ Mão”
“Hòa thôn hảo cảnh xứ chi ta”.
Xứ của Ngài là Vô Trụ Xứ Niết
Bàn, là xứ cùng mười phương chư Phật như chính Ngài thố lộ “ Sao
chẳng ngồi nơi ngôi vị hưởng quả bồ đề trường thọ mà còn len lỏi
xuống chốn hồng trần đặng chịu cảnh chê khen?” đã chứng minh được
điều xuống trần mượn xác là đúng. Chúng ta nên phân biệt giữa mượn
xác và mượn thân tứ đại. Mượn của tứ đại là đi đầu thai trong vòng
nghiệp quả, định luật của nhân gây ra quả, hễ con người gieo nhân xấu
tất nhiên hưởng quả xấu, không muốn những sản phẩm của mình làm
cũng không được. Còn mượn xác thì khác hơn và người mượn xác không
bị chi phối bởi định luật nhân quả, họ có quyền lựa chọn xác nào
và không bị khổ trong xác đó. Đức Thầy có câu:
“ Thân tuy còn tục tâm lìa cõi mê,
Chí toan gieo giống bồ đề,
Kiếm người lương thiện rước về Tây
Phương”
Người mà “tâm lìa cõi mê” chẳng
những được quyền lựa xác để mượn mà còn có quyền “Kiếm người lương
thiện rước về Tây Phương” nữa. Khi hiện thân trên đời, khổ đau lớn
nhứt của con người là dục vọng, sự ham muốn không ngừng. Ham muốn
làm cho ta khổ tâm, lao đầu vào công việc để tiếp ứng cho những ham
muốn là khổ xác. Chẳng thế, vì lao đầu vào vào công việc do dục
vọng xai khiến thì hoàn toàn là những điều dẫn tới tội lỗi làm
nguyên nhân cho sự luân chuyển báo đền qua kiếp khác, trùng trùng sự
khổ nối tiếp, bao vây.
Giờ chúng ta trở lại phần đầu câu
chuyện nhá! “Phải rán tu đặng mà chết, chớ đừng để chết đến mà
chẳng có tu”, quý vị sanh nghi “Phải rán tu đặng mà chết” chứ gì? Sao
không tu để được đắc đạo, vãng sanh, tu để chết mà còn kêu “rán” nữa
chứ?
Tôi xin hỏi quý vị nhá! có người
nào vãng sanh Tây Phương mà đem nguyên cái xác dơ bẩn hôi thúi nầy theo
luôn bên ấy không? Không có chứ gì? Phải chết bỏ xác mới về Cực Lạc
được. Vậy nên câu khuyên thúc của Đức Thầy tôi vừa nêu trên là quá
đúng đi chứ! Kiếp sống con người định luật đã ghi lên bảng tuổi thọ
của ta rồi, ta không biết ta thọ được bao lâu mà trước mắt ta có vô
số người chết trong đó có người chết già, có người còn rất trẻ;
có người sanh ra vài tuổi thì chết, có người chết trong bào thai, có
người sanh ra một chút rồi chết. Thế là cái chết diễn ra phức tạp,
vô chừng đổi, định luật đã ghi lên bảng ta sống tới ngày tháng năm
đó thôi nhưng ta không hay cứ tuông tiền ra tìm thầy hay dược giỏi tốn
tiền cho đã rồi cũng chết theo số. Có người dời được tuổi thọ nhưng
rất ít, như câu chuyện trong cửa thiền môn: một chơn tăng theo Thầy học
đạo, tu niệm siêng năng, vị Thầy biết người đệ tử thọ mạng ngắn
ngủi, cho về nhà làm hiếu sự với cha mẹ; trên đường về, chỉ vì cứu
sống nguyên đàn kiếng cộng với tâm từ bi của Ông, chỉ còn tâm từ bi
theo Ông làm việc cứu sống đàn Kiếng, không có tâm sợ chết và không
suy nghĩ việc làm thánh thiện là tăng tuổi thọ, giành lại sự sống.
Tất cả về sự chết là không, tất cả về sự ân ích là không, chính
việc làm không trụ tâm sanh vô vàn công Đức mà tăng tuổi thọ, đến
Thầy Ông còn phải giật mình khi thấy Ông trở lại Phật Đường.
Nhưng trong cái chết có sự giành
lại sự sống còn sẽ bị rắc rối cho việc đầu thai kiếp tới, đừng
nói là Phật cứu vãng sanh Tịnh Độ vì chính bản thân người giành
lại sự sống trong lúc nên bỏ đi, chứng tỏ họ yêu mến cõi trần hơn
cõi Tây Phương Tịnh Độ. Yêu trần chết trở lại trần là lẽ tất nhiên.
Vì biết chúng sanh không hiểu được thọ mạng của mình sống bao lâu nên
Đức Thầy khuyên rán tu cho kịp trước khi tử thần đến nhắm mắt là
vãng sanh Tịnh Độ. Chu đáo như vậy cho
người quyết một kiếp tu, chuẩn bị hành đạo xong, trước khi chết là
hội đủ điều kiện vãng sanh, tâm tâm nối liền chánh niệm, chết, liền
thay đổi tấm thân phàm tục thành thân Liên Hoa, hay Kim Cang bất hoại.
Có người hay khoe rằng mình thường
niệm Phật và thường giữ chánh niệm. Vậy là hay quá rồi còn gì!
thế nhưng bệnh sắp chết thì rất là sợ chết, không đành với số mạng
ngắn ngủi, lòng hoảng loạn lên là sao? Người thường niệm Phật và
thường giữ chánh niệm, chết là vãng sanh Tịnh Độ, sợ chết là sợ
vãng sanh sao? Nói thường giữ chánh niệm mà ỷ hay, xao lảng tâm một
chút thì chánh niệm bị mất, sắp chết là lúc cần chánh niệm hơn bao
giờ hết thì chánh niệm đi đâu biệt tích, vọng niệm tràn vào làm
chủ tình hình ham sống hơn là ham vãng sanh. Đây là điều mâu thuẫn mà
chính hành giả tạo ra, một là tham đời hai là không tin mình sẽ được
vãng sanh. Tham đời đến độ ghiền nhiễm nặng, sắp chết tới nơi cũng
còn ghiền là trong tâm không có Phật. Còn về việc không tin mình, người
đời mỗi khi thấy người ta khoe khoan mình hay giỏi, để trị cái bệnh
hay múa máy họ nói “Cạn đìa mới biết Lóc Trê, còn ăn móng biết đâu
Rô Sặc”. Cá Rô Cá Sặc người ta gọi là cá bổi, nó hay lên ngớp, ăn
móng lủm chủm ghẹo lòng người ham, cái thứ bán không nhiều tiền,
quan trọng là cá Lóc cá Trê mà công kỷ tác đến cạn đìa thấy không
có mấy con là lổ nặng. Tu tới hồi kết cuộc ví như tác nước đến
“cạn đìa”, chính sự không tin mình là điều tai hại nhất đối với
người Niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ, tự biết khả năng tu của mình chưa
đạt, nói trước chỉ là khoe tuồng giả thôi. “Chết đến mà chẳng có
tu” thì quý vị thừa biết chết đây để đi về đâu rồi. Đức Thầy dạy
đạo, điểm chính là con người ở thế gian phải được “mãn kiếp hồng
trần sanh Lạc Quốc”. Ngài ước mong:
“Ước trăm họ nhẹ mình có cánh,
Đồng bay về Cực Lạc một đàng.
Thì thân Thầy hết phải gian nan,
Đâu có chịu mang câu nhạo báng”.
Tóm lại: Câu “phải rán tu đặng mà
chết” không có nghĩa chết là hết để mình tiếc uổng công tu hành. Uổng
là không tu hay ít tu làm mất một kiếp người khó được, Phật Pháp
khó nghe trong khi kiếp người khó được mình đã được, Phật Pháp khó
nghe mà mình được nghe, quí hóa vô cùng. Người chết có tu đúng chuẩn
là chết được vãng sanh về An Lạc Quốc. Những người ỷ mình là đạo
lâu năm mà tu cứ bị vọng niệm nó “ngắt khúc” cho mất chánh niệm,
lại nhằm lúc tử thần đến réo đi thì nguy to lổ nặng một kiếp
người. Không ai biết mình chừng nào chết thì rán tu cho kịp trước tử
thần đến để “ Tử thần kia đâu dám dắt hồn”. Nếu không rán tu tức tu
cầm chừng, vọng niệm xen vào, tu lúc có lúc không là không kịp,
chừng “chết đến mà chẳng có tu” phải đầu thai kiếp khác, tiếp nối
sự sống khổ của thân thể khác, chưa biết thân người hay thân thú vật.
26/6/2016
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét