Thứ Bảy, 21 tháng 10, 2017

THƯỢNG ĐĂNG ĐẠI THẦN NGUYỄN TRUNG TRỰC

Vừa qua lễ cúng giỗ vị anh hùng Nguyễn Trung Trực, sáng nay 30 tháng 8 năm Đinh Dậu nhằm 19 tháng 10- 2017 kẻ dự cúng lễ quan thượng địa phương nhà: Cù Lao Ông Chưởng, người đi cúng lễ ở đình thờ Rạch Giá, hoặc bên đảo Phú Quốc xa xôi trở về đây. Thiên Quang Am có mở phiên trà sáng gặp gở các vị, kể cho nhau nghe lễ ở nơi nầy, nơi kia và những câu chuyện vui nhộn của từng địa phương tổ chức lễ. Sau một lúc ồn ào náo nhiệt, phía khách có người đặt ra câu hỏi: chức quan THƯỢNG ĐẲNG ĐẠI THẦN là chỉ cho vị thần nào? và ai phong chức? Bị hỏi bất ngờ, nhiều khách dự trà lẩn tọa chủ Thiên Quang Am không trả lời được vì chưa ai đọc thấy trong văn học sử nước nhà có tước phong như thế.
Từ lâu, tôi đọc bài nguyện trước ngôi thờ Tam Bảo có cụm từ “QUAN THƯỢNG ĐẲNG ĐẠI THẦN” ở địa vị chứng minh lễ quy y. Bài nguyện chỉ đề Quan Thượng Đẳng Đại Thần chứ không nêu quý danh ai, thế mà hầu hết tín đồ trong đạo đều một ý với nhau: Quan Thượng Đẳng Đại Thần chính là Cụ Nguyễn Trung Trực. Hằng năm đến ngày cúng kỹ niệm ông Nguyễn Trung Trực người ta hay bảo là đi cúng lễ “Quan Thượng”. Tôi còn thắc mắc thêm: Nếu như Cụ Nguyễn Trung Trực được phong làm quan thượng đẳng đại thần thì ai mới có quyền phong thần cấp tột đỉnh như vậy?

Gần đây tôi có đọc một tập sách nhan đề “ Đức Thầy Hòa Hảo với Làng Mỹ Hội Đông” của cư sĩ Trường Thanh mà tác giả của tập sách nầy lại là cháu nội của ông Cả Mười Lâm Tuấn Vĩ. Sở dỉ tôi chọn sách nầy làm  tài liệu tham khảo vì người tín đồ PGHH phần đông đều nghe danh biết tiếng dòng họ Lâm ở làng Mỹ Hội Đông, trong thời Đức Thầy ra khai sáng đạo thì ông Cả Mười và lần lược các con của ông:Lâm Ngọc Thạch, Lâm Thế Xương (Bảy Xương) Lâm văn Lẹ (Út Lẹ)… quy y trực tiếp với Đức Thầy. Họ Lâm cả nhà vì đạo, vì Thầy và đã cống hiến công sức rất lớn cho đạo PGHH.
Chúng ta đọc thấy trong quyển Sấm Giảng Thi Văn Toàn Bộ, mỗi bài đều có ghi năm, tháng, ngày và sáng tác ở đâu. Tính từ sau ngày 18 tháng năm năm Kỹ Mão Đức Thầy thuyết pháp, trị bệnh, và viết ra giảng kệ, thi bài, có nội dung giáo lý thắm đượm Phật Pháp; tại làng Hòa Hảo Ngài viết bốn quyễn Sám Giảng và nhiều bài văn thơ, cho đến lúc đi viếng non Ông Két Ngài ứng khẩu ngâm lên bốn bài thơ thất ngôn tứ cú, có ông Hương Giáo Tập ở Thới Sơn cùng theo chuyến viếng non và viết tốc ký ngay trên non đề ngày 14 tháng 1 năm Canh Thìn có trình qua Đức Thầy bản viết nầy và được Ngài công nhận. Từ khi Đức Thầy khai đạo đến giờ chỉ có bài “ VIẾNG NON ÔNG KÉT” mới đề viết trên chỗ lạ. Ta có nên tự đặt câu hỏi: Tại sao Đức Thầy viếng non Ông Két trước hơn đi dạy đạo đâu đâu không? Chính sự thắc mắc ấy ta mới thấy sự viếng non Ông Két của Ngài là để kêu gọi chư thần theo Ngài xuống thế độ đời:
“Vậy hởi chư thần mau nối gót
Theo Thầy dắt chúng khỏi nồng cay”
Sau khi đi Viếng Non Ông Két về mới khởi sự đi các nơi truyền đạo. Điều đáng lưu ý là điểm đầu tiên Ngài đến là làng Mỹ Hội Đông. Nơi đây Ngài có sáng tác bài: Viếng Làng Mỹ Hội Đông. Chấm hết bài viết Ngài đề: Mỹ Hội Đông 22-1 Canh Thìn.
Tôi trình bày sự kiện nầy hy vọng tạo một cảm giác dễ chịu cho người đọc hiểu chuyến Viếng Làng Mỹ Hội Đông là chuyến viếng mở màn, có liên quan mật thiết trong công cuộc châu du thuyết Pháp độ đời. Chuyện tôi nói: Dòng họ Lâm ở làng Mỹ Hội Đông có những cống hiến rất lớn cho Đức Thầy, PGHH là nói qua sách vở.
Như Phần đông đều biết, Lúc Đức Thầy bị lưu cư ở nhà Ông Ký Giỏi, dầu bị kẻ dị chủng dòm ngó Ngài vẫn làm được công việc “càng đen chơn lý tuyệt vời phổ thông”. Ép Đức Thầy đi lưu cư để cắt đứt sự quy tụ của quần chúng đến với Ngài nhưng đã mấy lần dời chỗ ở vẫn không cắt được. Quân Pháp toan tính đày Đức Thầy sang Ai Lao thì việc mới yên. Ông Cả Mười Lâm Tuấn Vĩ hay tin, bí mật tổ chức cho xe đến rước Đức Thầy đi nơi khác, trên xe có hiến binh Nhựt đi từ Sài Gòn xuống Bạc Liêu trước một bước làm cho quân Pháp không kịp trở tay, Đức Thầy thoát nạn bị đày. Cũng như cha, Ông Lâm Ngọc Thạch khi hay tin phe Trần văn Giàu sắp thi hành thủ đoạn ám hại Đức Thầy, ông tìm cách dời Đức Thầy ra khỏi căn nhà ở đường Miche về chiến khu miền đông an toàn và ông có viết tường thuật câu chuyện như sau:
“Sau đó tôi về đường Farinolles là nhà của một nữ đồng đạo tên là Bà Năm Cò. May thay, tại đây tôi gặp được cô năm Tournier là một nữ đồng đạo chủ nhân căn nhà 38 đường Miche, giáp với phía sau căn căn nhà số 8 đường Sohier. Cô năm Tournier báo tin mật: Đức Thầy hiện còn tại  nhà của cô, và cô ra đây để báo tin cho anh em tìm cách đưa Đức Thầy ra khỏi vòng vây.”

Đối trước mưu mô của bọn ác chuyên hiếp người không dùng khả năng tự vệ, Ông nghĩ phải nhờ vào sức mạnh của quân Nhựt nên đã vào sở hiến binh Nhựt mượn xe. Họ đồng ý cho mượn xe nhưng không cấp tài xế, vì vậy ông Lâm Ngọc Thạch phải đi kiếm tài xế, còn mình cũng là tài xế cho chiếc xe khác đồng hành. Tìm người tài xế có bản lĩnh vượt khó, gan dạ, quyết tâm với trách nhiệm không phải dễ dàng mà kiếm trong thời gian cấp bách nầy, như ông nói:
 “Tôi cần có một người tài xế để dễ bề đối phó khi bị chặn đường, và bà Năm Cò đã sốt sắn giao đứa con trai duy nhất mà bà rất cưng (tạm gọi là anh hai) đi làm nhiệm vụ nguy hiểm đó. Tôi nhận thấy đây là một cử chỉ hy sinh đáng kể của bà, vì bà chỉ có đứa con mà thôi, mạo hiểm đi làm công tác nầy thiệt là nguy hiểm, vì xông vào vòng vây địch, có thể bị bắt, hay bị xả súng bắn chết như không”.(trích PGHH trong lòng lịch sử dân tộc).
Những chuyện trên đủ để chứng minh gia tộc họ Lâm ở làng Mỹ Hội Đông có công rất lớn trong đạo và chuyện Đức Thầy Viếng Làng Mỹ Hội Đông trước hơn làng nào dù không ai nói… ta cũng suy nghĩ ra.
Sơ lược trên dòng sự kiện có liên quan như đã kể, giờ chúng ta trở lại chính đề: THƯỢNG ĐẲNG ĐẠI THẦN NGUYỄN TRUNG TRỰC. Việt Nam có chiều dài lịch sử hơn bốn ngàn năm văn hiến, suốt chiều dài lịch sử không mấy khi yên, nhân dân ta phải đối mặt với kẻ thù xâm lược. Vì bảo vệ giang san, nòi giống ông cha ta phải nghênh chiến với bọn cướp nước và đuổi họ ra khỏi lãnh thổ Việt Nam. Chiến tranh dẫn đến sự chết chóc thê thảm mà ông cha ta không có quyền lựa chọn bởi sách có câu “giặc tới nhà đàn bà phải đánh”. Đàn bà chuyên về nội trợ không có bản lĩnh chiến trường nhưng giặc tràn tới nhà là chuyện quá ép bức không thể khoanh tay chờ chết. Sách cũng nói “Sanh vi tướng tử vi thần” (sanh làm tướng chết thành thần). Trong nước làng nào cũng có dựng đình thờ Thần. Đức Thầy dùng cụm từ “Chư quan cựu thần” nghĩa là có rất nhiều vị đại thần sống một đời trung quân ái quốc, chết được phong thần. Nhưng bài nguyện quy y trước ngôi thờ Tam Bảo có cầu khẩn sự chứng minh của quan Thượng Đẳng Đại Thần, không giải thích quan thượng là vị nào mà người tín đồ trong đạo vẫn một mực khẳng định: Thượng Đẳng Đại Thần là Ngài Nguyễn Trung Trực. Cũng dựa vào đó người ta bảo nhau: Chức Thượng Đẳng Đại Thần của Nguyễn Trung Trực là do Đức Thầy phong. Tôi không đồng ý sự gán ghép nầy bởi một lẽ dễ hiểu, Đức Huỳnh Giáo Chủ là cổ Phật lâm phàm làm Phật sự với tất cả chúng sanh và mục tiêu làm phật sự là dạy cho người mê giác ngộ, lìa nhiễm ái cõi hồng trần để chừng lâm chung không bị oan khiên cột trói tự do vãng sanh về cõi Phật. Trong khi làm Phật sự, Đức Thầy có thể ấn ký cho người chân tu đắc Phật thành tổ như Đức Thích Ca đối với 33 đời tổ Thiền Tông. Nguyễn Trung Trực là quan chức của triều đình chứ không phải là người trong Phật môn thì đâu lý để Đức Thầy phong chức ông ấy! Quan chức triều đình thì phải có ấn ký của vua nhứt là tước Thượng Đẳng Đại Thần phẩm vị Thần trên các vị Thần…
Sau khi ông Phạm văn Lịch đốt tàu Tây ở sông Nhựt Tảo, quân Tây rất căm phẩn, phát lệnh huy động lực lượng truy bắt ông nên ông không thể ở làng Tân An được nữa, phải nhanh thoát về cù lao Ông chưởng làng Mỹ Hội Đông ở nhờ vào nhà ông Lâm Thoại Liễu. Hồi nầy chưa nghe ai nhắc tên ông Nguyễn Trung Trực chỉ có tên họ Phạm văn Lịch mà thôi. Quan chức triều đình ở địa phương có lẽ biết Phạm văn Lịch đã về đất lành nầy ẩn mình, nên ông chánh tổng Định Hòa làm bản báo cáo lên triều đình Huế kể những chiến công oanh liệt hào hùng của người anh hùng Phạm văn Lịch. Vua tiếp văn tấu và cử khâm sai mang ấn chiếu của vua vào nam thay tên đổi họ Phạm văn Lịch thành Nguyễn Trung Trực. Nhưng tiếc thay! Lúc nầy quân Pháp đã tràn vào miền Tây lấy ta thêm ba tỉnh nữa; ấn chiếu của vua, vì sợ quân xâm lược phát hiện nên vị khâm sai của triều đình đã để trong khạp mấm Huế, chở đi từ Long Xuyên đến tổng Định Hòa trên một chiếc thuyền chèo của ông chánh tổng Định Hòa. Thuyền đi tới khúc sông Nàng Ét thì thấy phía sau có nhiều chiếc thuyền chèo như rược theo, thấy thuyền chúng mỗi lúc gần lại thuyền mình. Thái độ chèo nhanh đồng loạt của họ đáng nghi… nếu như, chuyện mang ấn chiếu của vua bị bại lộ, bắt được Pháp sẽ không tha, nên vị khâm sai lật đùng khạp mấm xuống sông. Chừng những chiếc thuyền chèo phía sau qua mặt thấy không động phạm vì đến mình, vị khâm sai ra lệnh chèo thuyền trở lại ngay nơi hủ mấm bị ném xuống nước, mò mải không được. Chuyện đã lở, khâm sai tường trình vụ việc với chánh Tổng Định Hòa về ấn chiếu vua ban cho Phạm văn Lịch thành hoàng thân Nguyễn Trung Trực rồi liền về triều đình bẩm báo.
Đốt tàu giặc ở dòng sông Nhựt Tảo là một chiến công lớn, một chiến công chưa từng có trong lịch sử nước nhà. Đối như trong tay của những tướng lãnh binh cấp trung đoàn, sư đoàn cũng chưa ai có khả năng làm cho giặc khiếp oai, ăn ngủ không yên nếu như Việt Nam còn có Ông Nguyễn Trung Trực. Bị kẻ thù cướp nước truy bắt, Cụ Nguyễn trong người đầy mưu trí với chuyện chống đánh quân xâm lược tuy là đi lánh nạn nhưng lúc rảnh tay, tính ra kế, cũng đánh đồn Tây ở tỉnh Kiên Giang ăn gọn ghẻ, làm chủ tình hình gần tuần lễ. Chừng quân Tây ồ ạc tiến quân bằng súng đạn còn mình thì tay không, ông nghĩ phải sang đảo Phú Quốc ẩn mình chờ có cơ hội. Quân Pháp lâu Ngài không giết được Ông chúng giận dữ và lo sợ cụ Nguyễn sẽ đánh thần tốc một căn cứ lớn nào của Pháp tới đây. Chính sự lo sợ ấy khiến họ phát sinh kế sách hèn hạ, bắt nhân dân và mẹ ông đền tội thay. Chừng đó, ông vì nhân dân và mẹ ra mặt chịu chết để cứu mẹ, cứu dân. Đối với nước với dân công của ông thuộc về ĐẠI ĐẠI công, trên dòng lịch sử chưa có vị anh hùng nào thành tựu ba việc lớn như ông: Trung với nước, hiếu với mẹ, quí yêu sinh mạng nhân dân. Có một nhà thơ nào đó khen đáo khen để tài trí anh hùng của ông: “Lửa hồng Nhựt Tảo oanh Thiên Địa, Kiếm bạc Kiên Giang khấp quỷ thần”. Bởi thế, Sau khi Nguyễn Trung Trực hiển Thánh vua Tự Đức sắc phong Nguyễn Trung Trực là Thượng Đẳng Đại Thần.
21/10/2017


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét