CHỌN NÔNG NGHIỆP LÀ TRƯỜNG TU
Vì
nhu cầu cho sự phát triển kinh tế, không chỉ riêng cho cấp lãnh đạo quốc gia mà
cấp lãnh đạo tôn giáo cũng phải quan tâm đặc biệt. Miền Tây Nam Việt, đồng bằng
sông Cửu Long là vựa lúa cho cả nước, nên phần đông phát triển Kinh tế trong
khu vực cũng nhắm vào nông nghiệp. Thêm vào đó miền Tây Nam Việt là địa linh,
xuất hiện nhiều đấng cứu thế lập đạo khuyên tu. Đức Phật Thầy Tây An 1807 -
1856 Giáo Tổ Đạo Bửu Sơn Kỳ Hương; Đức Phật
Trùm cũng ra đời dạy đạo (- 1875); Đức Bổn Sư khai sáng Đạo Hiếu Nghĩa (- 1909
)Đức Sư Vải Bán Khoai xuất hiện khi đây khi đó thức tỉnh đời mê quay về nẽo đạo
khoảng đầu thế kỷ 20; Đức Thầy Huỳnh Giáo Chủ khai sáng Đạo Phật Giáo Hòa Hảo
18 / 5/ al năm Kỷ Mão 1939. Từ Đức Phật Thầy Tây An đến Đức Huỳnh Giáo Chủ thời
gian có hơn một trăm năm thôi mà hết 5 vị cứu thế xuống trần, sáng lập 3 tôn
giáo bản địa, vị nào cũng qua thời gian ngắn ngủi nhưng kết quả thật qui mô,
ảnh hưởng quần chúng rất mạnh.
Các
vị siêu nhân sao lại tập trung lâm phàm chỉ trong vùng trọng điểm nông nghiệp?
Có điều đặc biệt hơn nữa vị lâm phàm tiên phuông là Đức Phật Thầy Tây An, vị
cuối cùng là Đức Huỳnh Giáo Chủ. Hai Ngài chủ trương rất rõ nét về nông nghiệp
gắn liền trường tu. Đức Phật Thầy Tây An mở “Trại Ruộng” ở vùng Thới Sơn Nhà
Bàn, kêu hợp đồ chúng đến tu qua phương cách “Cư Sĩ Canh Điền, còn Đức Huỳnh
Giáo Chủ đã nhân danh “ Ta là Cư Sĩ canh điền, lo nghề cày cuốc cũng chuyên tu
hành”. Không phải chỉ nhân danh như vậy là đủ, Ngài còn mở chuyến đi “khuyến
Nông” 107 chỗ.
Đức Phật Thầy Tây An đã trải qua
nhiều gian nan thử thách của triều đình thời Tự Đức, rốt cuộc cũng đã chứng
nhận cho Ngài tự do hành đạo và truyền đạo. Để được chứng nhận Ngài phải thế
phát tại chùa Tây An Núi Sam, chùa thuộc hệ phái thiền Lâm Tế.
Tiếng là ở chùa Tây An, nhưng Đức Phật
Thầy hay đi giảng đạo độ bệnh cho bá gia và mở trại ruộng ở Thới Sơn, khu vực
Nhà Bàn dưới chân Anh Vũ Sơn (núi Két) thu nạp đệ tử, dân chúng đến quy ngưỡng
mỗi lúc mỗi đông. với BỬU SƠN KỲ HƯƠNG trại ruộng cũng là nơi Phật Học Đường. Trại
ruộng Phật Học Đường nầy hết sức là tiếng tăm , mới đó đã đạt kết quả tốt có
Thập Nhị Hiền Thủ tức 12 ông đạo thần thông diệu dụng:
Ông Trần Văn Thành (- 1873 ) chánh quản cơ vào hai thời vua
Thiệu Trị và Tự Đức. Vì Ông là đệ tử của Đức Phật Thầy Tây An, nên người đời
rất kính, gọi tôn danh ông là Đức Cố Quản. Tài phép của ông, lúc địch chiến với
quân giặc, ông đứng trước mũi thuyền tay chỉ về phía trước thì thuyền của ba
quân Ông có thể vượt đi trên cạn như người ta đi trên sông. Ngày nay ở vùng An Giang,
Châu Đốc, Rạch Giá có rất nhiều ngôi đền thờ Ông, và trường học mang tên ông:
Quản Cơ Thành.
Ông Tăng Chủ: Ông họ Bùi, có lẽ vì
công nghiệp của ông quá lớn mà người đời kính nể, kiêng cử tên ông, Ngay cả năm
sanh của ông cũng không thấy để. Theo tấm bia trước mộ của ông đề là Tăng Chủ
Bùi Thiền Sư. Biết ông ở khoảng giữa thế kỷ 19 và viên tịch vào ngày 27 tháng
10 năm mùi. Danh từ Tăng Chủ Hay Thiền Sư là do Đức Phật Thầy đặt hiệu cho ông.
Ông trông coi trại ruộng (phật học đường) rất chu đáo, thu phục được nhân tâm
các nơi đến học đạo quy y. Ông Tăng Chủ còn có biệt tài thu phục thú dữ ở rừng
hoang, và có lẽ nhờ được sự dạy dỗ mà các thú giữ không hành hung dân làng và
cũng không phá tán mùa màng. Có lần Ông Tăng Chủ đi công chuyện về, trời tối
xảy thấy trên đường có một con cọp như đang ở chờ…không phải chờ để ăn hại ông
hay ai khác mà chờ để được cứu. Cọp bắt thú rừng ăn ngốn nên đã mắc xương chỏi
họng lâu ngày không ăn bắt gì được, hình thể ốm o. không biết cọp nằm chờ từ
bao lâu, gặp Ông Tăng Chủ đến, nó đứng dậy một cách yếu ớt, biểu hiện sự đau
đớn trong họng nó. Ông Tăng Chủ hiểu ý, kêu con cọp đưa cổ ra, Ông đấm trên cổ
nó một cái rất mạnh thì trong miệng nó văng ra một cái xương.
Ông Bùi Đình Tây: 1802 – 1890. Là đệ
tử của Đức Phật Thầy, Ông được cắt đặt trông coi Đình Xuân Sơn như ông từ giữ
Đình, nên chi, thay vì gọi ông là Ông từ Đình người ta gọi ông là Ông Đình,
thêm tên của Ông là Tây người ta gọi là Ông Đình Tây. Ông có tài trị bệnh rất
hay, chuyên môn của Ông là cắt nẻ, vì Ông là đệ tử của Phật, tu học là chánh
nên nhân dịp cắt nẻ độ bệnh cho bá gia Ông còn thêm độ tu cho họ. Người đời mỗi
khi nhắc chuyện Ông Đình Tây là có đề cập đến chuyện Ông nuôi con sấu Thần.
Trong một chuyến đi theo lệnh Thầy đến miền Láng Linh đã làm ơn cho một người
đàn bà đang chuyển bụng đẻ lúc chồng đi vắng ông liền làm giường và đi rước mụ.
Chồng đi săn bắt ngoài đồng về thì đâu đó người vợ đã mẹ tròn con vuông. Vị chủ
nhà liền cám ơn ân nhân, để đền đáp, Ông ta tặng cho Ông Đình Tây một con sấu
con mủi đỏ có năm dò. Ông Đình đem về nhà lén Đức Phật Thầy mà nuôi lớn, nó bức
dây đi mất. Ông đem chuyện bạch với Đức Phật Thầy, nghe qua Ngài cất tiếng
than: con nghiệt thú ấy sau nầy hại vô số người ta.
Ông Đạo Xuyến 1834 – 1914 quê ở Quận
Mỏ Cày tỉnh Bến Tre
Ông Đạo Ngoạn 1820 – 1890 sinh ở Quận
Cao Lãnh tỉnh Kiến Phong
Ông Đạo Lập. Vị nầy thần thông quảng
đại, hành sự phi thường. Nhưng rất tiếc quyển sách nầy thiếu nhân duyên.Tên
thật của Ông đạo là Phạm Thái Chung ở thế kỷ 19, quê quán ở xã Đa Phước thuộc tỉnh
Châu Đốc.
Ông Đạo Lãnh, không biết Ông họ gì
sanh vào thế kỷ 19. Ông còn có cái tên nữa là Cậu Hai Gò Sặt.
Ông Trần Văn Nhu_ con trưởng nam của
Đức Cố Quản Trần Văn Thành _ 1847 – 1914.
Đến như Đức Huỳnh Giáo Chủ Phật từ bên
cõi Tây Phương lâm phàm, chọn nơi giáo hóa nhân sanh trong vùng nông nghiệp. Để
cùng với mọi người trong nghề ruộng nương mà dạy đạo lý cho học, Ngài tự Xưng
thực chất nông dân:
“ Ta là cư sĩ canh điền
Lo nghề cày cuốc
cũng chuyên tu hành”
Phật mà lo làm ăn và chuyên tâm tu
hành, dễ thông cảm quá! Sự thông cảm bắt nguồn để người có “Lo nghề cày
cuốc”cũng chuyên lo tu hành” nữa, nếu ta đọc thêm thì sẽ thấy ý nghĩa không
dừng lại đó, còn:
“xa nơi tranh đấu lợi danh
Giữ lòng thanh
tịnh tánh lành trau tria”
Thật là tuyệt vời! lo nghề cày cuốc
còn phải “Giữ lòng thanh tịnh”. Đúng là Phật học Đường trong đời sống nông
nghiệp.
Cũng đề cập việc vừa làm vừa tu nhưng
có tính giới luật hơn “ Ta chẳng nên lười biếng, phải cần kiệm sốt sắn lo làm
ăn và lo tu hiền chân chất”. Chữ “ và” trong câu là một liên từ thay vì dấu
phẩy (, ) để nối liền hai mệnh đề đều có tính độc lập: làm ăn và tu hành. PGHH dạy tu trong đời Cư Sĩ Tại Gia,
tự lực kiếm sống ăn tu; ít làm quá thì nghèo thiếu, đói không có cơm ăn, đau
không tiền mua thuốc uống nên phải “Sốt sắn lo làm ăn” để vượt khỏi nghèo
đói, nhưng cũng không thể không tu hành, vì không tu hành tội và khổ đến liên
miên, thế nên phải vẹn cả hai điều mới thông thoán, an lạc.
Như ý nghĩa trên, nếu đã sốt sắn lo
làm ăn thì cũng phải sốt sắn lo tu hiền chơn chất, đừng bao giờ chỉ sốt sắn có
một việc làm ăn thôi, lừ đừ mệt mỏi việc tu hành. Làm ăn và tu hành phải được
áp dụng bằng nhau, giống như người có đôi chân tốt đi đâu xa cũng tới, nhưng
nếu chỉ có một cái chân, đi thì chậm mà bị đường xa không dễ dàng chút nào. “Ta
chẳng nên lười biếng”là phải siêng năng? Cả
hai cùng một lúc siêng năng làm ăn mà cũng siêng năng tu hành. Ngay trong Phật học đường Nông nghiệp
nầy hành giả sẽ được cái cảm hứng “ Thân tuy còn trục tâm lìa cõi mê”
Đi thuyết pháp 107 chỗ trên đường
khuyến nông, có lẽ để ghi vào lòng quần chúng một ấn tượng khó quên, ngoài ra
Đức Thầy viết thi phẩm “Khuyến Nông”, chỉ vào câu đầu là ấn tượng ngay:
“ Hởi Đồng Bào! Hởi Đồng Bào!
Thần chết đã tràn vào Trung Bắc,
Ngày lại ngày siết chặt giống nòi,
Lật qua các báo mà coi,
Thấy con số chết xem mòi kinh nguy.
Cũng tại vì Tây Vi bày kế,
Phá hoại nền kinh tế nước ta,
Làm cho điên đảo sơn hà,
Làm cho điêu đứng
con nhà Lạc Long.”
Kinh tế nước ta giờ chủ yếu là nông
nghiệp, nhưng đã bị quân xâm lăng phá hủy đến kiệt quệ để dễ dàng thôn tính.
Đức Huỳnh Giáo Chủ trước tình cảnh ấy phải thở than:
“ Giờ đây xem lại mùa màng,
Năm rồi miền bắc tan hoang còn gì.
Chỉ có xứ Nam Kỳ béo bở,
Cơ hội nầy bỏ dở sao xong,
Cả kêu điền chủ phu nông,
Đứng lên đừng để ruộng đồng bỏ hoang.”
“ Gởi một tất lòng son nhắn nhủ,
Khuyên đồng bào hãy rủ cho đông,
Nắm tay trở lại cánh đồng,
Cần lao nhẫn nại
Lạc Long cổ truyền”.
Nhìn chung, Đức Phật Thầy Tây An lập
trại ruộng Đại Phật Học Đường, từ miền rừng núi âm u không người lui tới đã trở
nên quang đảng như sự quang đảng của 12 ông đạo dưới chân Ngài. Khác hơn Đức
Phật Tây An Đôi chút về bối cảnh chánh trị, Phật lâm phàm lúc nước nhà tạm yên
ổn không có đế quốc xâm lược. Đến Đức Huỳnh Giáo Chủ thì giặc Pháp đã tràn vào
ba nước Đông Dương Miên, Việt, Lào đặt cơ sở thống trị lâu dài. Quân Nhựt lần
theo mưu đồ thôn tính của mình thì Pháp rất e ngại sự có mặt của Nhựt bèn ra
tay trước xử lý kinh tế cho dân chúng Việt Nam điêu linh, Nhựt có muốn cũng
không được sự ủng hộ nông sản thực phẩm. Trước tình hình đó Đức Huỳnh Giáo chủ
cất tiếng than “ Thấy dân thấy nước nghĩ mà đau”.
Khai sáng đạo để dạy tu thành Phật
quả, đáng lẽ là phải chuyên biệt trong phạm vi mở rộng Phật Học Đường, hềm vì
cảnh “Nước mất nhà tan cơ sở của đạo cũng bị lấp vùi”. Nước mất là mất tất cả,
nước còn thì còn tất cả, khi quân xâm lược trị vì non nước Việt thì các Tôn
Giáo dầu là tôn giáo bản địa gắn bó với lịch sử dân tộc cũng bị sự an ninh
thắc chặc vòng vây. việc cấp bách có thể làm được như Đức Thầy kêu gọi:
“ Muốn cứu khỏi tai nàn của nước
Lo dạ dày là chước
đầu tiên”.
Quý nông dân tín đồ PGHH hợp bàn lạc quyên cất cầu
Sự thật của vấn đề “ lo nghề cày cuốc
cũng chuyên tu hành” đã có ảnh hưởng rất lớn với nông dân Nam Bộ, những vùng sâu xa bên
thửa ruộng với mái lá đơn sơ, trong nhà thờ Phật, trước sân có
ngôi thờ thông thiên, ở đó họ ít tranh đua thế sự, dĩ nhiên là không bị nhồi sọ
bởi thế lực cường quyền nào. Sau hết giờ canh điền tu trên đám ruộng thì đến
lúc cúng nguyện tu, tu được hai cái tu là tu không gián đoạn, nối liền,
nối liền…
30/12/2014
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét