TIẾNG CHUÔNG LINH.
Mấy ngày qua, đồng đạo đến thăm tôi, và trong nhóm khách
có vị đặt câu hỏi:
Thưa chú, đọc Sấm Giảng Thi Văn Giáo Lý
PGHH thấy rằng
Đức Thầy nhắm vào hàng tại gia cư sĩ dạy cách tu là Học
Phật Tu Nhân. Theo cháu nghĩ Học Phật là học
tất cả những vì gọi là thành công của Phật rồi đem đó mà tu với
con người, trau tâm sửa
tánh, không để mỏ chuông cùng đi
cầu Phật tu hành, như những
câu sau đây:
“Mỏ chuông bày đọc tụng ó la,
Chớ hiếm kẻ tường thông nghĩ lý”
“Đạo mầu diệt khổ có từ lâu,
Thần Tú ra đời lại góp thâu.
Chuông mỏ Sấm Kinh bèn cải sửa,
Xá phướng truyền lưu lấp đạo mầu.”
Theo những câu dẫn trên, rõ ràng người tín đồ PGHH đọc Kinh nhưng không áp dụng chuông mỏ trong
khi đọc Kinh. Đàng khác, Sấm Giảng Thi Văn Giáo Lý có câu: “Nện vang một tiếngchuông linh, Cho người trong mộng biện minh lẽ nào”. Xem ra cũng đồng là chuông mà nơi chấp nhận, nơi phủ nhận, thật khó hiểu, kính mong chú giải thích sự khác biệt nầy.
Kính thưa quý vị! Theo những câu
trích hỏi của đồng
đạo, ta thấy có sự phân biệt rõ ràng giữa
mỏ chuông đi cùng với tiếng tụng kinh và chuông không có tiếng tụng kinh. Phần mỏ chuông để tụng
kinh, theo tôi nghĩ,
Đức Thầy
đặt vấn đề không nên sử dụng, bởi vì:
“Quá mắc mỏ bởi chưn Phạn-Ngữ,
Nên người đời khó kiếm cho ra.
Mỏ
chuông bày đọc tụng ó la,
Chớ hiếm kẻ tường thông nghĩa lý”.
Người học đạo trực tiếp với chân sư nghe giảng pháp hoặc đọc
giáo lý, ngữ lục của chư tổ chư sư viết truyền để người đời sau có thể học
hỏi trong đó mà tu hành. Nếu Kinh văn bằng Hán Ngữ hay Phạn Ngữ đối với người
cư sĩ canh điền như chúng ta, trình độ không thông, tiếng
Phạn dịch âm ra Việt, cho dù có đọc được ta cũng không biết nghĩa
lý, trong khi Đức Thầy dạy đạo rất là cụ thể “Tìm hiểu nghĩa
làm theo đắc đạo”, nếu ta tụng kinh kéo
theo chuông mỏ làm ăn rập, thể
hiện sự công cán của ta với Đức Phật nhưng nếu không hiểu nghĩa
lấy đâu làm đúng theo lời Phật dạy. Phần nầy chúng ta không bàn nữa và tôi xin nhắc lại trước khi qua diễn dẫn mục thứ hai: Đạo
Phật, từ xưa các sư, qua tu hành có sử dụng chuông mỏ tụng
kinh bởi các sư là hạng xuất gia, bỏ thế tục lại sau lưng, đến chùa hay vào núi non am cốc, miệt mài tu học Phật Pháp có cơ hội tiếp cận với các bậc chân sư minh triết
học hiểu tiếng Phạn, tiếng Hán, tụng đọc chánh văn hiểu
nghĩa làm theo, còn được bày tỏ phần cội nguồn
của Đức Phật đã nói lên từ tiếng ấy… trái lại, người tại gia cư sĩ nhiều bận rộn với gia đình, xã hội,
cộng thêm kế sanh nhai, chưa bỏ lại sau lưng được điều gì hoặc bỏ rất ít, hành trình về Phật còn quá cồng kềnh nầy nọ trên
vai, mấy ai rành Hán văn hay Phạn văn mà biết ý nghĩa gì
trong khi tụng đọc.
Hãy đọc Giảng Kệ của Đức Thầy bằng Việt Văn, chúng
ta là công dân nước Việt,
đọc học, nghe pháp bằng ngôn ngữ Việt, tiếng mẹ đẻ, để sự
hiểu biết rõ ràng “Coi rồi phải thân mình tự trị, chẳng độ xong Phật khó dắt dìu”.
Chúng ta bàn qua tiếng chuông của câu “Nện vang
một tiếng chuông linh, cho người trong mộng biện minh lẽ nào”. Nếu tiếng
chuông có công năng đánh thức “người trong mộng”thì tiếng chuông có nghĩa là giáo pháp, giáo lý của Đức Thầy, Huỳnh
Giáo Chủ Phật Giáo Hòa Hảo. Nhưng người trong mộng nầy là ai? Điều nầy chúng ta phải tìm xuất xứ.
Xuất xứ hai câu giảng: nện vang một tiếng chuông linh, cho người trong mộng biện minh lẽ nào, được trích từ bài CẢM TÁC mà Đức Thầy
đã viết tại Bạc Liêu ngày 29 tháng 6 Nhâm Ngũ
(1942), ban Phổ Thông Giáo Lý Trung Ương kết tập vào quyển Sấm Giảng Thi Văn Giáo Lý Toàn Bộ
với lời giải thích trước bản chánh văn như
sau: (Đức Thầy
cảm tác viết bài nầy vì ông Nguyễn văn Ngọ ở Bạc Liêu nghi Ngài cản trở việc ông muốn
kết nghĩa thông gia với ông ký Giỏi ở Bạc Liêu). Tóm tắc đã xảy ra câu chuyện như
sau:
Ngày 12 tháng 4 năm Canh Thìn, chánh quyền thuộc địa đến nhà Đức Ông buộc Đức
Thầy phải đi theo sự sắp đặt của họ, Ngài bị đưa đến tỉnh Bạc Liêu năm 1941 ở
nhờ nhà Ông Bà ký Giỏi. Bấy giờ ông Bà ký hứa kết nghĩa thông gia với ông Nguyễn văn
Ngọ đàng trai, Ông bà ký đàng gái. Hôn lễ chưa thành bổng Đức
Thầy bị Pháp cho xuất hiện ở nhờ nhà Ông
ký Giỏi, vị tiểu thư của
nhà ấy gặp Đức Thầy có lẽ gặp luôn sự linh thiêng trong Đức
Thầy nên lòng trần tục không còn, cô xin từ hôn với vị công tử con ông Nguyễn văn
Ngọ. Đức Thầy hiện thân một thanh niên anh tuấn, tài đức siêu phàm trong nhà ông Ký, dầu có sự ve vản của người Pháp về mặt an ninh nhưng tín đồ các nơi vẫn len
lỏi đến được để nghe Thầy giảng đạo, khiến nên vị tiểu thư của nhà ấy càng thêm kính trọng đại ân đại đức của Ngài đã ban bố thiện duyên trong gia đình... Sự từ hôn trong trường hợp đường đột như vậy khiến ông Nguyễn văn
Ngọ khả nghi có liên quan với Đức Thầy. Căn cứ câu “Tình trường
đầy dẩy thi hài, lạ gì chẳng biết những bài học xưa”
thì ta có thể nghĩ ông Nguyễn văn Ngọ tưởng Đức Thầy là người phàm đi trong đường
xưa lối cũ “trai tài gái sắc”. Đức Thầy viết bài “Cảm Tác” tôi xin trích đoạn những câu sau đây để quý vị dễ dàng tìm hiểu:
“Ngồi mà ngẩm nghĩ chuyện xưa,
Thánh Hiền chẳng biết sao vừa lòng dân.
Đem thân mà rứt nợ trần,
Nợ
trần đâu khéo chần-ngần chun ra…
Đâu thông pháp-luật từ-bi,
Gán cho Tăng-Sĩ làm chi sự đời…
Tình trường đầy dẫy thi-hài,
Lạ gì chẳng biết
những bài học xưa.
Thánh-nhơn còn hãy răn chừa,
Huống chi Phật-Đạo Tam Thừa quy mô
Sa-Môn chí những tín-đồ,
Mai-dong cản mối tựa hồ gớm-ghê…
Lòng ta trong sạch người ơi,
Người sao chẳng xét luận lời phi ngôn…
Lìa quê tách bước xa ngàn,
Gia-đình chẳng đoái còn màng chi ai…
Nện
vang một tiếng chuông linh,
Cho người trong mộng biện minh lẽ nào”.
Những câu trích dẫn trong bài Cảm Tác đã nêu trên, theo suy nghĩ của tôi, giải thích từ trên xuống
dưới: Ngài bảo với ông Nguyễn văn Ngọ rằng: tăng sĩ đây đã đem thân rứt nợ trần của mình đi rứt nợ trần cho tất cả chúng sanh đâu thể có chuyện tự gây nợ trần mà ông lại nghi
tôi…Tình duyên đôi lứa, đạo làm người (thánh đạo) còn dạy răn
chừa bằng đưa ra khuông thước:Trai có Tam Cang
Ngũ Thường, Gái có Tam Tùng Tứ Đức, không chấp nhận quan hệ nam nữ ngoài hôn ước.
Huống chi đạo Phật dạy tu Tam Thừa: tiểu thừa, trung thừa và đại thừa,
vượt siêu nhơn đạo, rốt ráo khỏi nhiễm trược đọa sa cõi hồng
trần, hết kiếp nhân gian sẽ đắc sanh về cõi Phật. Thế
nên trên đường tu, hành giả phải loại bỏ các sự nhiễm ô trần cấu mà vấn đề
nam nữ là một chướng ngại hơn hết trong các chướng ngại. Từ tín đồ cư sĩ
đến các vị Sa Môn (tỳ kheo) không được suy nghĩ về tình duyên đôi lứa cho mình hay cho người khác, “mai
dong cản mối tựa hồ gớm ghê” Mai-Dong
(làm mai) là không được
phép mà cản mối nhà Phật cũng dạy thôi đi… Những
lời giải thích của Đức Thầy qua bài Cảm Tác như tiếng chuông, tiếng Pháp của Ngài giảng lên, đánh thức
người trong mộng mà người trong mộng ấy chính
là ông Nguyễn văn
Ngọ.
Nói tóm lại: Cảm Tác của Đức Thầy là một bài giảng nêu cao tinh thần
Phật giáo thoát ly thế gian, “Nện vang một tiếng chuông linh”, tiếng
chuông không phải là chuông mỏ các sư dùng hòa nhịp vào lúc tụng kinh Phật mà là pháp âm vi diệu của Đức
Thầy đánh thức người trong mộng dậy để xem Ngài là ai mà
dám trách lầm.
08/2/2017
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét