AI MÀ MẶC AI
Xin chào chư đạo hữu đến thăm!
Chúng con chào chú. Thưa chú! Lật quyển Sấm Giảng và Thi Văn Giáo Lý Phật Giáo Hòa Hảo, trong bài
đề tựa “Tư
Tưởng” có hai câu con xin trích dẫn ra đây hỏi, rất mong được sự giải thích của chú:
“Chắp tay Niệm Phật Di Đà,
Lòng ta, ta biết; ai mà mặc ai”
Con thắc mắc cụm từ “Ai mà mặc ai” nhờ chú giải nghĩa, đặc biệt hơn
hết, theo sự hiểu biết của một hành
giả.
Tôi chưa nắm rõ ý hỏi của cháu, cháu
có thể nói lại đồng thời cho thêm một hai cái ví dụ được không?
Dạ, ví dụ như người tu niệm Phật, ai làm thiện, làm ác, nghèo
khổ, đói đau gì gì… mặc kệ họ, ta cứ lo niệm Phật để
sớm đạt mục đích, Phật cứu vãng sanh Tây Phương…
Tôi hiểu rồi, cám ơn cháu qua dẫn dụ. Theo sự hiểu biết của tôi, cụm từ “ai mà mặc ai” được dùng trong hai lĩnh vực:
Một, đối trong phiên cử Niệm Phật phải điều tâm tuyệt đối vào chánh niệm, Nam Mô A Di Đà Phật chỉ là
Nam Mô A Di Đà Phật thôi, không để phóng tâm qua việc nầy việc nọ hay kẻ lạ người quen, kẻ thương
người ghét; đừng sắm tuồng tịnh tọa ra vẻ
cao thượng trên vị trí tu hành, làm oai nhà đạo mà tâm tư bị chôn vùi
trong đống
chuyện vớ vẩn. Ngay giờ phút tịnh niệm, cho dù có nhớ Phật, nhớ pháp,
cũng không bằng nhớ và niệm Phật cho rành
đừng nói chi là những nhớ tưởng viễn vông khác. Niệm Phật liền lạc không kẻ hở, Không có niệm khác chen và cũng không có bất giác, câu niệm Phật vào chánh
niệm. Hãy tự biết và nhắc nhở mình, giờ nào việc nấy, giờ ta đang
niệm Phật thì cứ mà niệm Phật, đừng niệm hay suy nghĩ vì khác ngoài niệm Phật mới xứng đáng danh xưng. Ai làm gì làm gì, họ ồn ào nhiểu loạn cỡ nào
thì cỡ,
giờ ta dành cho niệm Phật nhứt quyết phải được
niệm Phật, không chấp nhận niệm gì khác, họ làm gì mặc kệ họ.
Hai, “ai mà mặc ai”, áp dụng trong khi không vào khóa công phu tịnh tọa. Là người tu hành, đối với những tiếng thị
phi, lời lẽ khen chê, nói bóng nói gió, hay sự giàu
sang, ai đó lắm của nhiều tiền mặc kệ người ta, mình
tu nhơn tích đức cứ lo việc tu nhơn tích đức, chấp vào lời lẽ khen chê,
nói bóng
nói gió của người khác về mình lòng sanh
buồn bực
thì còn tu hành gì chớ! Lo vun trồng cội phúc, chẳng vì tiếng khen của người ta
về mình mà khoái cảm, vui thích, chẳng vì tiếng chê của người ta về mình
sanh lòng buồn giận. Họ khen chê ta mặc kệ họ, để tâm thảnh thơi không có
chuyện vì xảy ra, lòng không
chao động
mới hiệp nhứt nẽo đạo, mầu nhiệm ý chí
đi tới
đỉnh điểm.
Ngoài hai lý do kể trên ta không nên “ai mà mặc ai” với chuyện phước thiện
giúp đời. Giáo lý PGHH dạy pháp
môn “Học
Phật Tu Nhân”, về học Phật là có quyền học hết những gì gọi là thành công của đạo Phật còn tu nhân là tu với con người. Để xác định mục tiêu tu với con người bằng vào bốn điều ân quan
trọng: Ân Tổ Tiên cha mẹ, ân Đất Nước, ân Tam Bảo, ân Đồng Bào và Nhơn
Loại.
Ta được cha mẹ sanh ra và nuôi lớn khôn, dạy cách ở đời, cho học nghề nghiệp… ơn ấy lớn lao sánh như trời biển, hèn
vì người
xưa đã đặt thành điệu ca dao:
“Công cha như núi Thái-Sơn,
Nghĩa mệ như nước trên nguồn chảy ra.
Một lòng thờ mẹ kính cha,
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con”.
Thế ta không thể để mặc kệ cha mẹ đói
no, nghèo khổ rách rưới, ta cứ lo ngồi một chỗ tu
niệm.
Nhờ ơn Đất Nước, trước hết để
biết ta là người Việt Nam, và những vị anh hùng
dân tộc
bảo vệ giang san giữ nguyên chủng nòi Lạc-Việt để ta và
con cháu ta sau nầy mãi mãi là kim chi ngọc diệp, nòi giống Tiên Rồng. Nhờ
quốc gia vững mạnh, dân chúng an cư lạc nghiệp, nhà nhà ấm no hạnh phúc thì ta không thể áp dụng “Ai mà mặc ai” lên vai trò đất nước và
những
người hy sinh hay làm phát triển một quốc gia giàu mạnh. Đức Tôn Sư
ta dạy:
“Ân Đất Nước: Sanh ra, ta phải nhờ
tổ tiên, cha mẹ, sống ta cũng nhờ đất-nước,
quê-hương. Hưởng những tất đất, ăn những
ngọn rau, muốn cho sự sống được dễ dàng,
giống nòi được truyền thụ, ta cảm thấy bổn-phận phải bảo-vệ đât-nước khi bị kẻ xâm
lăng giày đạp. Rán nâng-đỡ xứ sở quê-hương lúc nghiêng-nghèo, và làm cho được trở nên cường-thạnh. Rán cứu-cấp nước nhà khi bị kẻ ngoài thống-trị. Bờ cõi vững lặng thân ta
mới yên, quốc-gia mạnh giàu
mình ta mới
ấm.”
Đọc đoạn dẫn chứng trên ta cảm thấy có bổn phận, trách nhiệm với quốc gia không
thể nói “ai mà mặc ai” với quốc gia được. Có điều, công dân trách nhiệm với quốc gia
không nhứt thiết phải xua quân ra trận, tùy theo khả năng tu tập mà
chọn vai trò ơn nước ở hình thức nào cho phù hợp đạo và đời.
Nhờ ân Tam Bảo thuyết lý
nhân quả
cho ta học hạnh tu nhơn tích đức, tránh tội thêm phước. Thường thì người trong thế gian tưởng thân nầy là thật thân, gia tài sự nghiệp trường tồn, nó mãi mãi là của ta. Do suy nghĩ như thế mới hồ hởi
đem thân giả giữ lấy của giả, Đức Thầy có câu:
“Màn vô minh che mờ căn trí,
Nên thường khi nhận ngụy làm chơn.
Lo huyễn thân vật chất kém hơn,
Chẳng thèm biết tinh thần đạo đức.
Dệt lưới nghi đeo điều phiền
phức,
Bịnh rịn đời cực khổ tan
thương.”
Ta nhờ Ân Phật với thuyết Tứ Diệu Đế, một trong bốn diệu đế là Khổ Đế, về hình tướng, thân nầy được kết hợp bởi bốn thứ: Đất, nước, lửa, khí; về tâm linh thân nầy được điều động đến
bởi luật nhân quả; một khi nhân quả đã đền xong thì thân tạm mượn bởi bốn hợp chất đất, nước, lửa, khí của đâu trả về đấy, ta đã mất, tài sản của ta phút chóc biến vào tay
của người
khác. Đạo Phật khai sáng lòng ta, giúp ta vượt khỏi những thứ làm cho u mê ám chướng, biết đâu là giả thật, đâu
là nẽo chánh đường tà để bỏ tà theo chánh, đi vào đường Phật đi, đến chỗ Phật đến.
Nặng ơn với đạo Phật như thế, gặp lúc đạo nhà suy di, người thọ ơn Tam Bảo không thể khoanh tay đứng nhìn, không thể áp dụng câu “Ai mà mặc ai” ở đây được. Đức Thầy dạy, trông
như giá nào cũng phải chấn hưng Phật Giáo:
“Dù cho phải chịu ngàn cay đắng,
Cũng nguyện đạo mầu sẽ chấn hưng”.
Ân đồng bào và nhơn loại, Đồng bào:
nghĩa gần
gủi là đồng cùng một bào thai do
cha mẹ
sanh ra, nghĩa rộng là nói cùng giống nòi, công dân trong một quốc gia. Nếu chỉ có ta thôi thì ta không thể đương đầu với các thiếu thốn về vật chất, tình người. Đặt vào ta sống nghề làm ruộng, lúa gạo ăn là không thiếu nhưng nhà
ta không biết dệt vải thì quần áo đâu ta mặc, mùng
chiếu đâu ta ngủ, vật tư xây
dựng ở đâu để ta cất được ngôi
nhà…? Tất
cả đều nhờ ơn đồng đào. Nay đứng trước cảnh đồng bào ta bị đói, bị thiên tay bảo lụt làm
tan nhà nát cửa ta không thể áp dụng câu “ Ai mà mặc ai” để chết ai nấy
chịu khoanh tay đứng nhìn.
Chắp tay niệm Phật Di Đà: Câu nầy đáng lý
phải được
trình bày trước cho đúng thứ tự nhưng thấy không
cần chú giải từ ngữ, chỉ dùng
ý thôi, nên để sau cho dễ kết hợp với “Ai mà mặc ai”.
Như quý vị biết, “chắp tay niệm Phật” là thể hiện rõ nét
hành giả
đang công phu, không chấp nhận có những diễn biến khác
đến quấy
rối buổi công phu, áp dụng triệt để lời dạy
của Đức Thầy trong khi ở vị trí chắp tay niệm Phật như
sau:“ Còn phương pháp niệm Phật là để trừ cái vọng niệm chúng sanh, vì trong tâm của chúng sanh niệm niệm mê
lầm chẳng
dứt; vì cái vọng về việc thế trần ấy mà không cho cõi lòng an-lạc, phiền-não ngăn che, chơn tâm mờ-ám. Nên nay, hễ thành
tâm niệm
Phật thì nếu được một niệm Phật ắt lìa được một niệm chúng
sanh, mà niệm niệm Phật thì lìa tất cả niệm chúng sanh”. Theo lời chỉ dẫn trên, trong lúc ở vào vị trí công phu tu tập, “chắp tay niệm Phật” phải
gạt bỏ muôn duyên bên ngoài, áp dụng “ai mà mặc ai” với tất cả.
Tóm lại: câu “lòng ta, ta biết; ai mà mặc ai” chỉ nên áp
dụng trong
hai khuôn khổ, một là trong lúc công phu, chấp tay niệm Phật thì phải nhiếp tâm theo
cách niệm
Phật để trừ vọng niệm chúng sanh, không
chấp nhận
sự len lỏi, rò rỉ nào từ ngoại cảnh đưa vào
làm rối công phu chánh niệm. Hai là việc tu hành lúc
không ở vào vị trí công phu
“chắp tay
niệm Phật Di Đà”, những thiếng thị phi,
khen chê, những câu nói bóng nói gió
xa gần
hoặc những lời ong bướm… hãy để cho nó bay đi bay đi, tự sanh tự diệt, đừng giữ vào lòng.
26/4/2017
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét