Thứ Năm, 30 tháng 7, 2015

BÌNH DƯƠNG KÊU
Cử trà sáng nay quá ồn ào với những tin thời sự nóng bỏng, mâm trà tay ba, uống để đàm đạo thì không có gì mới, các nhà trồng trọt hoa màu, chủ đám Hành đám Rau hay Cải phen nầy bại trận. Một số vị qua lại đường ranh đất trước Thiêng Quang Am gặp là hỏi thăm mùa màng thắng hay bại. không nghe ai trình bài thắng chỉ là bại nhiều hay bại ít. Tiếng than thở mần ăn xui xẻo, rau rẩy bán không ai mua. Có người kêu lổ khiếp vía, đã hết vốn còn thêm nợ nần, rủ nhau ngồi cả trại bàn chuyện đi Bình Dương.
                                                     Bàn chuyện đi Bình Dương

Hành rau cải đầy đồng mà không có cửa tiêu thụ, kêu lái nào cũng ngó ngang, chạy tét. Được biết có anh nông dân trồng hai công rưởi hành đổ vốn các thứ vào đó là hai mươi lăm triệu thì tới bán. Hồi trồng thì tính hốt tiền to mà kết quả là hốt trật tay, kêu bán với giọng nan nỉ mà không có thương lái nào dám tới. Chỉ cần có ai hỏi mua, rẻ thì bán rẻ, vớt vát lại chút đỉnh vốn còn hơn cho nó già chết rụi ngoài đồng, thua đứt đường.
Nhưng trong số cũng có người nói rằng: Tại thời Trời đã đến lúc vậy thì phải chịu vậy, rồi anh ta lại lên giọng: Buồn mà chi em ơi! Buồn mà chi em ơi! Than cỡ nào thì cũng thế thôi! Bổng anh ta nghiêm giọng:
Phải năm nay là năm con Dê không? Là năm Mùi đấy!
Phải thì sao?
Nếu phải là đừng than
Tại sao?
Đức Thầy cho Biết “chừng gặp tuổi Mùi bá tánh biết thân”. khổ mới nhiêu đây chưa đâu, còn nhiều còn nhiều.
Thôi đừng bàn thiên cơ nữa, để tôi lo đi Bình Dương mà trả nợ. Chừng chết không thiếu ai, an tâm mà đi theo Ông theo Bà cho xứng đáng.
Vậy không nói Thiên Cơ, nói thực tế được chứ?
Thực tế gì nào?
Đức Thầy nói “Trên dương thế hữu hình tất hoại”. Anh có tin không?
Lời của Đức Thầy sao lại không tin được.
“Hửu hình tất hoại” ở con người và cảnh vật ta đã thường thấy xảy ra. Vũ trụ bao la cũng có hình tướng…
Tôi nói để cho tôi đi Bình Dương mà.
Dân tình đây có cái lệ đi Bình Dương, hễ ai làm ăn thua lổ cùng đường thì quảy cập ra đó “đầu quân” vào sở. Xứ là xứ rẩy, nhiều năm qua giá cả cứ bấp bênh làm ăn không khá, tuổi trẻ trong làng lúc mới thì nhà chiết bớt một lính trẻ đi đầu quân để lỡ trong nhà gặp khi mùa màng thất bại nó chiết lương về cứu khổ cứu nạn. Nhân dân kiên trì giữ quê, tưởng bấp bênh một lúc nào đó thì ngưng ai dè sự việc kéo dài thua không gượng được. Hành lúc mua giống chín trăm ngàn một tạ, làm trầy da phỏng trán tay chân lở lói mà chừng được bán thì bán đổ bán tháo giá một hai trăm ngàn đồng. Thua một keo siểng niểng thì trong nhà tiếp thêm một đứa quảy cập đi Bình Dương. Đi riết xóm làng vắng bống thanh niên, đàn ông trẻ, còn mấy Ông gia đầu râu tóc bạc, cái gánh nặng gia đình của thằng con trai, con gái, giờ nhà không còn tuổi trẻ lão đầu râu tóc bạc phải kê  vai vô gánh. Nhưng kê vai mà lần nầy lổ nặng, đứt chếnh, như làm cái bài cào mà bù là chung hết, phen nầy lão phải quảy cập lên đường nữa thôi. Đầu quân Bình Dương người ta chê già, thiếu chút nữa là sáu mươi tuổi đâu phải dễ kiếm việc làm.
Nếu chánh quyền tỉnh An Giang không có giải pháp giúp nhà trồng trọt hoa màu giá cả ổn định, duy trì nghề truyền thống của Ông Cha dân bỏ xứ mà đi lang thang cầu thực, trách nhiệm cũng có một phần ở chánh quyền. Hô hào đô thị hóa nông thôn, phát triển nông thôn mà dân xứ mình bỏ đi làm giàu cho tỉnh Bình Dương hoặc những tỉnh khác thì cái Ông chủ tỉnh An Giang  chịu lép vế với Ông chủ tỉnh khác sao? phải có cách giữ dân của mình lại bằng tạo công ăn việc làm trong tỉnh, giải quyết cấp bách cái nạn của nhà trồng trọt phải bám lấy nghề làm hoa màu và giữ đất của Cha Ông không mất hay hoang phế.
                            Anh trồng rẩy chỉ tay vào đám hành tốt thế mà bán không ai mua

Tranh nhau hãng nầy hãng nọ chế biến các loại thuốc trừ sâu, thuốc bổ dưỡng hoa màu, thuốc nầy hay thuốc kia hay. Hay lâu thì củ bán chậm nên bày hoài hoài thuốc mới giá cao, moi tiền nhà trồng trọt cho vốn nặng lên mà chừng làm ra được của cải thì không có chỗ để tiêu thụ. Có nhà trồng trọt nọ than: hành, rau bán không được, để lâu già xuống màu, muốn không xuống màu thì phải cho nó uốn thuốc bổ mạnh, hồi sinh cầm cự ít ngày coi mai ra có lái lú tới, phun một bình thuốc giá một trăm hai trăm ngàn đồng, dưỡng sắc màu cho rau cải thì cũng một vài ngày chứ muốn lâu thì phải phun thêm vài trăm ngàn nữa. Phun thêm, phun thêm rốt lại không có ai mua, sau cùng cũng bỏ, phen nầy thua nặng. Gần chết mà cũng còn lổ, để nó tự chết thì lâu, không tranh thủ được vụ tới mà nhìn thêm tức cái “đồ ế”, mua thuốc diệt cỏ cho nó uốn đặng kết thúc sớm thì phải tốn thêm tiền, đàng nào thì cũng hao tiền.
Trồng trọt trúng thất là do nông dân siêng năng hay lười biếng hoặc thiếu kinh nghiệm học hỏi còn ra được sản phẩm trúng mùa mà không có thương lái vào mua thì chánh quyền cũng nên ngó vào. Chánh quyền của dân thì phải lo cho dân, làm cái gì đó cho dân ổn định về tiêu thụ sản phẩm hàng hoa màu để nhân dân an tâm làm ra sản phẩm. Dân do nghèo đói bỏ xứ đi mà chánh quyền thì lúc nào cũng đô thị hóa nông thôn, phát triển nông thôn, có một kết quả ngược ngạo như vậy coi sao được.
An Giang có trường đại học, mỗi năm sinh viên tốt nghiệp lấy bằng đâu phải ít, nếu An Giang thiếu cơ sở kinh doanh công nghiệp hiện đại, sinh viên học ra mà trong tỉnh không có việc làm cho người có bằng đại học thì ở quê đi cắt lúa vít đất mướn hay quảy cập ra Bình Dương? cho dù ra Bình Dương hay đi tỉnh nào khác có chỗ làm việc theo bằng đại học, nhưng chất sám trong tỉnh mình mà để cho tỉnh khác xài thì thật là tiếc. Có nghững gia đình nghèo cha mẹ lặn lội thân cò để mót tiền cho con ăn học, nếu thành tài có chỗ làm ở quê nhà, tự tay nâng đỡ cho quê hương mình phát triển kinh tế, văn minh, thì đúng là niềm tự hào của người con quê mẹ. Nhà nước trung ương chủ quản hết các tỉnh thành phát triển kinh tế đồng đều, tỉnh nào có nguồn thu nhập thấp, lép hơi tý, nhà nước cấp cao tìm cách nâng lên. Huống chi tỉnh với tỉnh mà để cho dân tỉnh mình quảy cập ra tỉnh Bình Dương hay tỉnh khác…cũng mắc cỡ giùm chút chớ!
Bằng không thì thôi, nếu hoa màu của nước mình không đem bán xuất khẩu hay chất lượng không cạnh tranh nổi với các nước láng giềng thì xếp bớt, chừa đủ tiêu dùng cho nội địa, chờ chuyển được cây trồng nào bảo đảm tiêu thụ tốt. Chúng ta không bàn việc bỏ đất hoang uổng vì uổng đất còn hơn là uổng sức, uổng công. Vật tư nông nghiệp có mùa tăng giá biết chóng mặt, nếu hợp tác vật tư nông nghiệp mà người ta luôn lời còn mình lổ thì hợp tác làm chi. Nhà nước đừng nên thiên vị chủ đầu tư vật tư nông nghiệp, cứ sợ dân không làm mùa thì vật tư không bán cho ai sao?
Trường đại học cũng thế, sinh viên lấy được bằng đại học tốn hao các cái cả trăm triệu mà ra trường không có cơ sở theo nghiệp vụ chuyên môn để lấy lại đồng tiền vốn bỏ ra, kiếm tiền bằng các việc lao động ngoài ý muốn thôi thà đừng sản xuất chi cho nhiều bằng đại học. Còn chưa kể những trường hợp tiêu cực, khi đã lấy được bằng đại học, muốn có một chỗ làm phải đút lót qua một hai cái cửa ải…
Phải chi nhà nước cho học miễn phí, lỡ không có chỗ làm theo sở học, nghèo đi vít đất mướn hay chạy xe đạp ôm xét không lổ lả gì mà tức. Đàng nầy nộp học phí rất cao, nhiều gia đình, cha mẹ phải tảo tần hôm sớm để có tiền nuôi con ăn học thành tài. Chánh quyền cũng thừa biết trong tỉnh nhà, sinh viên đậu đại học ra không có việc làm, báo chí cũng đã đánh động…

31/7/2015

Thứ Hai, 27 tháng 7, 2015

BÀN VỀ BÀI THƠ “TÌNH YÊU” CỦA ĐỨC THẦY

Chuyện rất là tình cờ, tôi gặp một số đồng đạo lạ, xứ xa kể cho nghe về đại lễ 18/5/2015 vừa qua với lượng khách không ngờ. Từ đâu đâu đổ về Hòa Hảo như dòng nước trên thượng nguồn chảy ra sông lớn. Đông người như vậy không có tiệm quán ăn uống nào chứa nổi, cho dù huy động hết các tiệm ăn, nhà hàng ở Sài Gòn vào cũng chịu thua, cho một số khách phải chịu đói.
Nhưng người vùng Hòa hảo vẫn làm tốt công việc đãi ăn, đặt để không xa thì có một trạm cơm, chiêu đãi viên hàng hàng lớp lớp chia nhau làm tốt công tác từ thiện, toán thì đãi trong rạp che, người mang cơm hộp ra giữa dòng người chen vô mà phát, những khách không được ăn cơm trong trạm có rạp che thì khi nhận được cơm hộp nép lên lề đường mà ăn thỏa thích, muốn ăn mấy hộp cũng có. Trịch ra một chút là có trạm cơm khác cũng đãi tận tình và chiêu đãi viên của các trạm kia cũng chia toán làm như thế. Nước uống người ta đem phát còn nhiều hơn cơm: nước đá sữa đậu nành. Nước đá chanh đường, trà đá đường, nước đá hột é…
Chen người đi lâu tôi cảm thấy mệt mỏi kiếm chỗ thoát ra. Dưới một tàng cây che mát tôi gặp bốn người đàn ông trạc tuổi từ bốn đến năm mươi, trông rất sang trọng, mặc kiểu Tây, thắc cà vạc, lúc tôi vừa đến trong số có một người nói:
Ngài Huỳnh Phú Sổ đúng là bậc kỳ tài, nên lễ đạo của Ngài soi sáng rực Trời Nam.
Đó là sự phản ảnh trung thực một bài thơ của Ông ấy.
Một bài thơ gì chứ?
Bài thơ “tình yêu”
Anh biết sao?
Biết.
Hay anh là bổn đạo của Ông Hòa Hảo?
Không.
Thế anh…?
Một người bổn đạo Hòa Hảo chép tặng tôi.
Nghe anh nói bài thơ đã phản ảnh trung thực với đại lễ hôm nay. Nếu nó không dài lắm, anh đọc cho ba đứa tôi nghe được chứ?
Không dài, thơ chỉ có mười hai câu, thể loại tứ tuyệt.
Ông ta đọc cho bạn mình nghe
Nghe đọc xong bài thơ “tình Yêu”người bạn yêu cầu nầy khen hay:
Đúng là tuyệt diệu, tuyệt vời. Nếu tôi nhớ không lầm, ba đoạn thơ đều thể hiện một tình yêu rộng lớn, nhưng dường hơi trong thơ có một bống hồng nào đó đã muốn…
Tôi nghĩ  có thể vậy, nhưng để đáp lại mối tình nồng nàn của cô ấy qua đoạn đầu “Tình yêu chan chứa trên hoàn vũ, không thể yêu riêng khách má hồng”thì thật não nùng thay cho một thứ tình yêu đơn phương của khách má hồng. Đoạn thứ hai Ngài tỏ cho kẻ yêu mình biết rằng, tình yêu của Ngài chỉ để “Hướng về phụng sự cho nhơn loại” thôi. Đoạn thứ ba rõ ràng là đoạn quyết định “ Tình yêu mà chẳng riêng ai cả, yêu khắp muôn loài lẩn chúng sanh”.
Có lẽ tình yêu của Ngài quá cao thượng, tín đồ chỉ còn thờ kính và dạ, vâng, lễ đông rần rần là tất nhiên.
--------------()------------
Nghe đồng đạo lạ, xứa xa kể chuyện gặp bốn Ông khách tôi thích lắm.
Làm thơ, cõi nhân gian nầy có biết bao nhiêu người chơi thơ, nắn nót cung điệu, còn đáng mặt thi sĩ thì xưa nay không ít. Ta cho rằng những thi sĩ tài danh có khả năng lôi cuốn đọc giả yêu thơ, lựa lời trong thơ là nét đặc sắc cho thơ thêm duyên dáng hữu tình. Ở vào thơ tải đạo, nếu không phải là bậc siêu nhân trên trước, tìm đâu ra cái lời lẽ “ Tình yêu chan chứa trên hoàn vũ, hướng về phụng sự cho ơn loại, yêu khắp muôn loài lẩn chúng sanh”. Nếu không phải là bậc giải thoát hồng trần làm sao mà nói được cái câu “không thể yêu riêng khách má hồng”.

Theo câu chuyện của Thầy Giáo Trí (Ông tư Trí), mà kẻ viết bài nầy có cơ duyên nghe thẳng từ Ông tư Trí nói rằng: Xưa tôi và Nguyễn Xuân Thiếp đồng tuổi, học cùng trường cùng lớp. Học hết ở trường tỉnh lên Sài Gòn học tiếp thì nơi quê nhà mẹ tôi chết, tôi phải bỏ trường về quê chịu tang mẹ và nghỉ học để nuôi cha cho nhà đở cô quạnh. Anh Thiếp may mắn hơn tôi tiếp tục con đường công danh. Tôi quy y vào đạo Phật Giáo Hòa Hảo. Nghe tin tôi làm thế Ông Việt Châu không bằng lòng. Một lần đi họp ở Bắc Việt về, Ông ghé cố đô Huế mua một bộ sách Phật Học về tặng tôi:
Anh Trí, nếu muốn tu thì nên tu theo quyển sách nầy, đừng tu theo Ông tư Hòa Hảo. Ông ấy học hành không có nhiêu mà là Thầy anh sao?
Biết anh ấy nói vậy là sai, với Đức Thầy thì không thể đem kiến thức nhà trường mà so đo hơn kém. Nhưng Việt Châu thông minh mà biện luận cũng giỏi, chưa thích hợp để  đáp trả tôi đành thiệp. Lần khác, cũng ra Hà Nội họp văn học, cuộc họp có đề mục, hãy tìm kiếm những vần thơ trong dân gian, bình dân hay bác học, xuất xứ có tác giả và vô danh kết thành tập để lưu truyền cho thế hệ mai sau. Việt Châu nói với tôi rằng: Tôi nghe nói Thầy của anh viết rất nhiều thi bài, anh có thể đọc cho tôi nghe một bài, nếu hay tôi sẽ đưa bài ấy vào tập lưu truyền.
Nghe anh ấy nói tự ái trong tôi dồn dập nhưng kìm hảm được lòng thì tôi rất mừng, nghĩ thầm trong bụng: Hôm nay cơ duyên đã đến, anh ta sẽ tức khắc hiểu được Đức Thầy và PGHH, tôi liền đọc cho anh nghe bài “Tự Thán”. Tôi cố ý đọc chậm để anh ấy nghe rõ mà không hỏi lại mất thời giờ. Tôi đọc dài dài xuống tới những câu “Từ mang một tấm áo Dà, mùi thiền đã thấm ơn nhà lợt phai” tôi thấy anh ta có thái độ như muốn kêu dừng lại để anh nói điều gì đó nhưng lại thôi và tôi đọc đến câu “Từ bi buộc chặc cõi lòng, còn ơn cúc dục để hòng mai sau” thì anh ra dấu ngưng và hỏi tôi: có phải anh đọc của Ông tư Hòa Hảo không đó? Tôi đáp Phải.
Tôi biết anh nghi ngờ vì trong mắt của anh, với trình độ học vấn của Đức Thầy không có khả năng viết được những câu thơ hay như thế. Tôi nói: Nếu anh không tin là sự thật tôi sẽ đốt đèn đọc ngay bài đó cho anh. Anh nói không cần làm vậy và kêu tôi đọc tiếp. Tôi đọc: “Bể trần sóng cuộn lao xao, Xông thuyền bát nhả lước vào một phen” anh đưa bàn tay lên chận tôi và nói:
Thôi được rồi.
Hai câu thơ có gì làm cho anh không thích nghe nữa?
Không phải không thích mà là đủ tin rồi.
Anh muốn nói…tôi không hiểu
Hễ ai viết được hai câu như anh vừa đọc thì vị đó là Bồ Tát, Phật chứ không vừa đâu.
Cám ơn sự nhận xét của anh.
Tôi muốn gặp Thầy Tư Hòa Hảo.
----------()---------
Chúng ta hiểu gì về thái độ của Ông Việt Châu? Một thái độ như giật mình khi đã nghe hai câu “Bể trần sóng cuộn” mà “xông thuyền Bát Nhã” hay “ xông thuyền ra cứu vớt sanh linh”. Đối với chúng ta mà nói, hành động như thế là rất táo bạo, không ai dám nghĩ tới đừng nói là có người làm. Chúng ta muốn đi đâu mà thấy màu trời chuyển mưa ngại ước không đi, nắng nung nóng cũng không đi, muốn mua đồ cần thiết mà nghe đàng kia lộn sộn là không đi, gió lạnh cũng không dám ngoài. Thời tiết bình thường, xã hội bình thường mà người tín đồ Hòa Hảo trước khi đi còn phải lễ trình bàn thờ cửu huyền, ngôi thờ Tam Bảo nhờ sự hộ độ cho trên đường đi và về không gặp sự rủi ro nào. Còn đây “Bể trần sóng cuộn” hiện diện sự rủi ro trước mắt mà dám “xông thuyền”, hành động khác người thường, nghe hai câu thì đủ biết đó là Bồ Tát, Phật.

27/7/2015

Thứ Tư, 22 tháng 7, 2015

ĐỨC TIN QUA CẦU NGUYỆN

Nhiều người cho rằng Hòa Hảo là vùng đất linh thiêng, diễn tả sự linh thiêng qua ba yếu tố quyết định: Thiên Thời, Địa Lợi, Nhơn Hòa.
Thiên Thời: là thời tiết của Trời, không xảy ra mưa to gió lớn như giông bão sập nhà, không quá khắc nghiệt về nóng quá hay lạnh quá.
Địa Lợi; Vùng đất rất tốt, không có chất độc gây hại người và các sinh vật, nước ngọt trong mát, ruộng vườn tươi tốt, cây trái sum sê.
Nhơn Hòa: người người sống vui hòa thuận, thương yêu, đùm bọc. Nhiều khách viễn phương đến chơi vùng Hòa Hảo( kể cả Đồng Tháp, An Giang, Châu Đốc) qua tiếp chuyện là cảm thấy hài lòng với cái thật thà, chân thành, đạo vị và sự mến khách của xứ chủ. Xưa không quen nay mới quen thì dẫn khách về nhà, mời ở chơi lâu, tốn hao cơm nước, mất thời giờ mà chừng người ta ra về còn núm níu mời thêm: Quen nhau thì đừng quên, nếu rảnh việc mau trở lại nhá!
Bởi thấy được ba điều tốt đẹp đó mà người ở đâu xa, hễ đất lành thì đừng lo không có chim đến đậu, xứ có giặc đánh liên miên, phải tản cư thì tốt hơn nên chọn tản cư lên Hòa Hảo nhứt là vùng Thánh Địa, để qua kiểm tra mà thấy rằng dân vùng Thánh địa thuộc tứ chiến quần cư.
Qua ba yếu mục mà tôi giải thích, xin được ghi nhận theo tính tương đối sẽ không cảm thấy khó chịu khi thời tiết gió mưa, lạnh nóng bất thường, đất đai có năm thì mầu mở trúng mùa, có năm nông dân nghèo thiếu; con người dầu hiền, biết thương nhau nhưng không phải lúc nào, ở đâu cũng hoàn toàn tốt đẹp. Nói ở mức tương đối thì thời tiết, đất đai, con người đỡ hơn những vùng khắc nghiệt.
Theo suy nghĩ của tôi, các cụ xưa nghiên cứu đã phát hiện ra rằng: Vị cổ Phật lâm phàm đủ trí tuệ để chọn nơi có thiên thời địa lợi nhơn hòa khai sáng đạo cứu đời. Nhưng từ đó trở đi có gìn giữ được thiên thời địa lợi nhơn hòa cho niềm tin Hòa Hảo nữa không là trách nhiệm, bổn phận của tín đồ. Nếu không vì học đạo để tu nhơn tích đức chưa chắc thời Trời cho tốt mãi đây đâu. Nhưng cho đến giờ nầy ta thấy thời Trời vẫn còn tốt ở vùng dân cư Hòa Hảo như những bằng chứng cho thấy:
1 / Nhẹ bị chiến tranh. Việt Nam ta trong thời kỳ một nhà hai họ Việt Cộng và Quốc Gia, nội chiến mà đánh trận ăn thua ghê gớm hơn giặc ngoại xâm. Người sống trong đời nếu bị hỏi những gì đáng sợ nhứt họ đều đáp giống nhau: Sợ chiến tranh. Vì chiến tranh có thể cướp đi mạng sống của mình hay của những người thân mình. Tôi bỗng nhớ ngoài xa xưa mà khắc lòng:
Một chiều đầy mưa gió
Âm u cả Đất Trời
Rung rinh hồn vũ trụ
Tiếng khóc gào vạn nơi.

Lóc lăn trên cát bụi
Máu tươi nhuộm thi hài
Hận thù chi thế sự?
Chiến đấu gìn cho ai?

Mẹ chết hóa con côi
Ở đâu? Nhà cháy rồi!
Chạy đâu? Đầy khói lửa!
Áo em rách tả tơi.
Chiến tranh đã làm cho con xa cha, vợ xa chồng, ruộng đồng bỏ hoang, nghèo khổ. Thấy được sự đau khổ của chúng sanh giết hại lẫn nhau chỉ vì tham vọng ngôi bá chủ bắt dân làm đoàn quân xâm lược đánh chiếm những quốc gia khác; chết bao nhiêu thì chết, dân kêu khổ kệ nó, dân kêu đói cũng kệ luôn, Đức Huỳnh Giáo Chủ kêu gọi các vị nguyên thủ quốc gia:
“Trông ngày chư quốc chư hầu tỉnh tâm.
Đừng gây chinh chiến ù ầm,
Để gây hạnh phúc mà tầm Phật Tiên.
Ta-Bà thật cảnh ưu phiền,
Duyên trần cấu kết oan khiên báo đền.
Thiều quang thắm thoát dường tên
Mắc vòng sanh tử có bền được đâu.
Chi bằng theo học đạo mầu,
Sớm qua khổ hải theo hầu Phật Tiên.
Tham chi giả tạm của tiền,
Như chim vào lưới xích xiềng trói thân…”
Chiến tranh leo thang ở mọi nơi, nhưng vùng đông dân cư PGHH, ít chịu ảnh hưởng chiến tranh là sao?

2 / Giông bão: Một điều đáng lưu ý hơn, gần đây thôi, những trận bão kinh hoàng mà đài thiên văn khí tượng thông báo sẽ đổ thẳng về vùng Đồng Tháp An Giang, Châu Đốc với sức đi rất mạnh. Đã hai lần thông báo đều không có xảy ra. Giông bão vừa tới vùng đông dân cư PGHH thì liền đổi hướng đi. Hòa Hảo êm như ru. Còn nhớ năm nào gần đây thôi ước chừng năm 2010 hay 2011 vì đó ban chỉ huy phòng chống lục bão đã ra lệnh cho ba vùng trọng điểm bão đi: Đồng Tháp, An Giang, Châu Đốc, dưới sông cấm tàu ghe hoạt động, đò dọc cấm tuyệt đối, đò ngang tư nhân nhỏ không được đưa, cấm học sinh đến trường. Nhờ có thông báo trước của đài thiên văn khí tượng bà con đồng đạo PGHH tự ý thức, tin chắc khẩn vái sẽ được kết quả, không ai rủ ai mà rầm rang đến chùa Thầy “An Hòa Tự”cầu nguyện cho không có bão đến. Những ngày lo sợ bão đến,chùa không vắng người cầu nguyện hết ngày rồi lại suốt đêm, kết quả không có bão là sự thật.
Những người có tín ngưỡng tôn giáo, nặng niềm tin về sự cứu độ của các đấng thiêng liêng đã tự lý luận rằng bão to như cục đá to muốn di chuyển đi chỗ khác, phải biết sức nặng của nó cỡ nào, một vài người không đẩy nổi thì cần có nhiều nhiều người đẩy cũng văng mất. Nghe báo bão người tin sâu Phật Lý trầm tỉnh lấy lòng. Nghe bão mà sợ đến hốt hoảng lên là có thể tính chuyện không hay, vái vang hồ đồ dẫn đến sự mê tín. Ta là người có tín ngưỡng Đạo Phật với môn giáo lý thật tế, sáng ngời, đừng vì quá sợ mà vái vang như kiểu Ông lên bà xuống. Định chạy đi đâu không bằng chạy lại cái bàn thờ Phật trước đã. Hãy cầu sự cứu độ của Phật trước khi đi trốn bão, chắc chắc sẽ có may mắn đến cho những người di tản nầy.
Đức Huỳnh Giáo Chủ chọn nơi khai sáng đạo có đủ ba yếu tố nói trên, giáo lý dạy tu tâm dưỡng tánh, ăn hiền ở lành là một lẽ, đến như “Tôn chỉ hành đạo”dạy tín đồ cúng nguyện mỗi ngày hai thời Đức Thầy cũng còn đặt để ở đó ba vị vua trị vì ba cõi vào bài cúng nguyện để tín đồ khẩn vái suốt đời với các ơn trên độ chúng bình yên. Trong bài Tây Phương Ngũ Nguyện đọc trước bàn thờ Phật, câu nguyện thứ nhứt “Nam Mô nhứt nguyện cầu Thiên Hoàng, Địa Hoàng, Nhơn Hoàng, liên Hoa hải hội thượng Phật từ bi Phật vương độ chúng thế giới bình yên”. Cứ mỗi ngày hai lần cầu nguyện vị Vua Cõi Trời (thiên Hoàng), vua cõi đất (địa Hoàng), vua cõi người (nhơn Hoàng) cùng với “Thượng Phật Từ Bi Phật vương độ chúng thế giới bình yên”. Nguyện hoài hoài như vậy các vị ơn trên không nỡ từ chối tấm lòng thành.
Phàm tập tu cho dù có phước đức, công đức cũng một ít không đủ ảnh vang xa được. Nếu các nơi trên thế giới mà đồng cầu nguyện, tu hành thì chúng sanh cả thế giới cũng được bình an:
“Nhứt thiết chúng sanh vô nghiệp sát
Thập phương hà xứ động đao binh.
Gia gia hộ hộ đồng tu thiện
Hà sầu thiên hạ bất thái bình”.
Ngặt ảnh hưởng chỉ tập trung ở vùng đông dân cư PGHH, vùng khác không hoặc ít người tu cầu, một cầu siêu mà trăm cầu đọa kết quả sẽ ra đọa, nên xảy ra chiến sự, giông bão nhiều, trồng trọt thất mùa, nhà cửa hư sập và có khi còn mất mạng nữa là khác.
Giờ đây đứng trước tình hình Trung Quốc có âm mưu xâm chiếm nước ta. Họ ỷ nước lớn, người đông còn Việt nam ít không thể đương chiến. Theo lời dạy của Đức Thầy người nào có khả năng “tùy tài tùy sức nỗ lực hy sinh cho xứ xở” thì chen vai vào việc, ai không thể làm được điều đó thì ráng sớm hôm cầu nguyện cho “thế giới bình an” và ta vang vái các đấng thiêng liêng lấy lại trật tự, công bằng, mỗi quốc gia có bờ cõi riêng biệt thì nước ai nấy ở. Quốc gia xâm lăng hãy trở về nước họ.

23/7/2015

Chủ Nhật, 19 tháng 7, 2015

ÂM BINH
Hồi còn bé tôi thường nghe những Ông Bà già nói câu nầy “Giặc Trần có chỗ, Giặc Thổ có nơi gặp nạn Binh Trời biết đâu mà tránh”.
Nhà tôi ở gần nhà Ông Bảy, Ông này ăn ở có đạo đức lắm, lớn nhỏ trong xóm đều kính. Có lần bọn trẻ chúng tôi chơi tống lon trên giữa đường cải lộn sanh tử, chưởi bới không nhường. Ông bảy đi ngang qua nghe thấy đứng lại rầy chúng tôi sao mà nói quá hổn miệng. Ông khuyên chúng tôi niệm Phật làm lành để sau nầy không chết bởi nạn Binh Âm. Chúng tôi ngưng chơi tống lon, bu quanh Ông Bảy, thằng Thà lớn khỉ nhất nó hỏi vậy chớ Binh Âm là gì? Ông Bảy nói: Binh Âm là binh của Trời sai xuống bắt chết những người hung ác, hổn miệng, không phải bắt về Trời cho mình sướng đâu mà giật chết tại chỗ, các cháu sợ không? Chúng tôi đồng nói dạ sợ. Nếu không muốn bị giật chết thì đừng có hung hổn, không trộm cắp, ăn ở có hiếu với Ông Bà Cha mẹ, thương mến anh em, thương mến những người lở đường nghèo khổ bệnh tật ăn xin. Người hiền là con của Phật Âm binh không bắt chết.
Lớn dần lên tôi nghe mấy Ông Bà kể chuyện Âm Binh nổi dậy năm 1945, có những gia đình chỉ một đêm là chết sạch trong khi họ chẳng có chút bệnh hoạn gì. Sống mạnh cùi cụi mà chừng chết ngả lăn ra chết. Mới đầu còn có người vác len ra đồng đào chôn, về nhà tưởng yên ai ngờ một cái xác khác nằm ngay đơ, vác len đi đào chôn nữa, đến người sau cùng chết chẳng còn ai chôn cất nên Ông Bà mới có câu “ai chết trước đặng mồ đặng mả, ai chết sau thì rả thây thi”. Toàn là chết ban đêm không mới lạ!
Qua khỏi nạn âm binh năm 1945, những Ông Bà còn sống sót trong vùng âm binh nả trốc rất dị ứng tiếng động lớp cớp ban đêm. Nên hễ Trời tối lên đèn mà ai còn cầm búa hay cây gỏ đóng nầy nọ là Ông Bà rầy lắm. Bởi cái ấn tượng giữa đêm khuya khoắc người ta dở váng lót nhà hay kéo bộ ngựa ra đóng quan tài, nghe tiếng lớp cớp là lạnh da gà.
Có người hợp bóng vía thấy Âm Binh tướng to cao, chân đi kêu như nện đất, dừng lại nhà nào kêu tên họ, ai nghe kêu đúng tên họ mà ơi một cái là chết ngay. Nhưng xem ra, những nhà, người bị chết bởi Âm Binh đều là những kẻ ăn ở không hiền.
Có người nghe thế thì bảo rằng:
- Vậy ban đêm nghe kêu đứng ơi.
- Lúc đó đâu có tỉnh hồn như vầy mà biết_ Ông Bà nói_ với lại sống không tu hành, gây nhiều tội chướng Phật không thể độ họ thì quỉ vô thường độ Đức Thầy diễn tả cảnh tượng còn ghe gớm hơn:
“Trời mở cửa quỷ vương xuống thế
Nên ta mới ra tay cứu tế
Kẻo chúng sanh bệnh khổ quá chừng.
Sau Quỉ Vương đi đứng nửa lừng,
Thêm tên tuổi chúng sanh nó biết.
Làm đủ cách xuống lên tha thiết,
ở ngoài đường nó biết tên mình.”
Còn nhớ năm 1972 hay 1973 gì đó, tôi cùng đi chuyến quỹ lạo nạn nhân chiến cuộc từ vùng Lình Huỳnh đổ dài ra Kiên Lương, Hà Tiên. Chuyến đi nầy lấy danh nghĩa Ban Chẩn Tế Tổ Đình Phật Giáo Hòa Hảo. Đoàn đi trên hai chiếc tắc ráng lớn chỡ lủ khủ những hàng cứu trợ, một chiếc do Ông Nguyễn văn Tính trưởng ban phổ thông giáo lý quận Tân Châu làm trưởng và một chiếc do Ông Nguyên Phát (Tám Gìn) và y tá Lương Tâm điều hành. Xuất phát từ bến Tổ Đình, ngày tháng mấy thì tôi quên nhưng nhớ là vào mùa nước nổi, mưa lại nhiều. Đi đường kinh xáng Vịnh Tre, có treo băng rorl cứu trợ nạn nhân chiếc cuộc. Tới cầu số 13, ấp Cầu sắt, nghe phát tiếng vang vội từ hai ống loa treo trên đọc giảng đường của ban trị sự ấp cầu sắt, yêu cầu đoàn cứu trợ Tổ Đình PGHH ghé lại chúng tôi có việc cần. Đoàn theo lời yêu cầu, cho mũi tàu ghim vào bến trụ sở ban trị sự. Ban trị sự và các đồng đạo địa phương xa xôi nầy đã tề tựu lại hội quán, đọc giảng đường đặt bàn Phật cầu an. Đoàn hỏi qua duyên cớ, đồng đạo ấp Cầu sắt có người đại diện cho biết: Đêm rồi Âm Binh nả trốc ở vùng đây người ta chết nhiều lắm, chúng tôi bàn tính, chọn hướng giải quyết vấn đề chết chóc bằng đặt bàn cầu nguyện, từ sáng sớm đến giờ với hai cái loa phóng thanh Sám Giảng Giáo Lý PGHH. May mắn được quý đoàn ngang qua trong thời gian quan trọng nầy, xin mời quý vị ở giúp dân xứ chúng tôi đêm nay.
Bằng cách nào _ Ông Nguyễn văn Tính Hỏi_
Vị đại diện nói trên đáp:
- Tiếp thêm đông người cầu nguyện, nhất là đoàn đi đây đều thành tâm trong việc cứu giúp đời, công phu nhiều, quả lành lớn, cầu nguyện để làm khích lệ tinh thần, phước duyên cho bà con tin Phật, đồng thời thuyết trình và đọc Sám Giảng Thi Văn giáo lý PGHH. Tin tưởng rằng nơi có sự hiện diện của người chơn tu giảng thuyết điều chơn chánh chắc chắn dân chúng sẽ được hưởng phước mà an ổn.
- Như thế đẩy lùi được Âm Binh sao?
- Chắc vậy.
Được đoàn cứu trợ chấp nhận yêu cầu, ở lại cộng tác thiện nguyện, thiện hạnh, Ông Hội Trưởng ban trị sự ấp Cầu sắt cho viên Liên Lạc đi mời những nhà ở xa tầm phóng thanh của đọc giảng đường, còn trong tầm phóng thanh thì Ông ấy mời trên máy khuyên bà con đồng đạo hãy đến cùng chúng tôi nguyện vái và nghe Phật Pháp PGHH để nhờ đó mà Âm Binh không đến bắt ai nữa.
Sau buổi công phu chiều của đoàn cứu trợ, Trời vừa nhá tối, đợi nhà nhà thắp đèn nhang xong ban tổ chức lên máy mời dân một lần nữa đến nghe thuyết trình giáo lý và cầu nguyện. Dân địa phương đến dự đông đủ, vị xướng ngôn viên kêu gọi bà con cầu nguyện tập thể, Ông hội Trưởng ban Trj Sự đia phương điều hành cuộc nguyện vái xong, trở lại phần truyền bá giáo lý, vị xướng ngôn giới thiệu Ông Trưởng Ban Phổ Thông Giáo Lý quận Tân Châu thuyết qua đề tài: Niềm Tin và Sự cứu Độ. Qua phần kết luận Ông còn khuyên mọi người nếu không nhớ về đề giảng thì rán niệm Phật làm lành cũng tốt cho sự tu.
Kết thúc chương mục thuyết trình bà con đồng đạo địa phương đến bàn cầu phật tự do nguyện vái xong ra về, tới phần đọc ngâm Sám Giảng thi văn giáo lý, để không làm sai sót đối với những đọc giảng viên, đoàn đề cữ một người thư ký ghi danh  theo số thứ tự từ A đến Z và nếu không hết đêm thì đọc xây vòng hai.
Xem qua thứ tự danh sách đọc giảng viên, tên tôi còn cách qua nhiều vị vậy là an tâm xuống tắc ráng nghỉ hơi một chút cho đỡ sức. Loay quay xoạn chỗ chưa kịp nghỉ thì thình lình tiếng súng nổ ác tai như một trận đánh lớn, có nhiều cây súng bắn đạn dây, cục lửa bay bay trong vùng đêm đen. Ánh hỏa châu cũng tung lên không trung sáng rực bầu trời. Chúng tôi sợ bị nằm trong trận đánh của hai bên Quốc Gia Việt Cộng, bỏ tắc ráng chạy tháo lên bờ tìm hầm núp đạn bay vèo vèo. Đọc giảng đường cũng vặn tắt máy. Kiếm không có hầm nào tôi cùng Anh Tám Gìn ngả người sát xuống mé kinh, dầu gì cũng có chiếc tắc ráng be to đỡ đạn giùm.
Trận đánh không kéo dài, chiến trường im tiếng súng mà chúng tôi chưa ai dám ngồi dậy. Khoảng mười lăm phút sau, nghe tiếng gỏ cợp cợp trên máy phát của phòng đọc giảng, mỗi người trong hồi hộp:  Bà con ơi không phải giặc giả gì đâu, hãy ra mà sinh hoạt bình thường. Đó là lời phát biểu ngắn gọn của Ông Hội Trưởng Ban trị Sự để mọi người lấy lại bình tỉnh, sau một lúc tới anh lính ở đồn nghĩa quân cũng đến dỗ an:
Có một cô gái thấy được Âm Binh đi từ xa đến cô kêu báo lớn tiếng với mọi người, chỉ cho mọi người thấy và cô kêu bà con niệm Phật nếu không để chừng Âm Binh đến là chết chắc. Cô chỉ nhưng không ai thấy Âm Binh đi. Lính nghĩa quân nghe tin rủ thêm nhiều tay súng đến, cô gái chỉ hướng nào lính nghĩa quân bắn theo hướng đó. Làm bà con tưởng là có trận đánh lo sợ mất hồn, xin lỗi bà con.
Nghiên cứu qua Sám Giảng Thi Văn giáo lý của Đức Thầy, ngoài sự lo sợ Già Chết của tấm thân tứ đại, còn có ba điều đáng sợ nữa một là chiến tranh tàn khóc, hai là nạn Âm Binh, ba là nạn Bệnh dịch tả. Chiến tranh thì tầm cỡ quy mô:
“ Đến chừng đó bốn phương có giặc,
Khắp hoàn cầu thiết thiết tha tha.
Vậy sớm mau kiếm chữ Ma Ha,
Thì Phật cứu khỏi nơi khói lửa”
Đặt lại câu “Gặp nạn Binh Trời biết đâu mà tránh”. Qua những chuyện quý Ông Bà Xưa kể thì nếu tránh khỏi nạn Âm Binh nả trốc không có sự hay ho nào hơn là tu, niệm Phật dùng chay, không thì khi đụng chuyện không ai cứu được như Đức Huỳnh Giáo Chủ nói:
“Nơi phía trước cheo leo tiếng khóc
Đứng sau lưng hình vóc dảy chưn.
Nước kia lửa nọ tưng bừng
Thảm cho thế sự lẫy lừng nạn tay.
Thời cũng tại không ai tu niệm
Cứ lẳng lơ ngạo biếm khoe khoang.
Đến nay là buổi tai nàn,
Tam thiên lục bá khắp tràng hai dân.”
Đức Thầy tiết lộ thiên cơ, sự khổ ghê gớm sẽ đến với nhân loại trong nay mai, bằng những câu:
“Lớp đau chết kể thôi vô số,
Thêm tà mà yêu quái chật đường.
Chốn hồng trần nhiều nổi thảm thương,
Làm sao cứu những người hung ác”
Bởi vì:
“Không tu chừng khổ cũng ưng,
Tu hành gặp cảnh vui mừng toại thay”.
Nghi rằng: Giặc Thổ tràn sang giết chóc nhiều là có điềm báo của Binh Âm tới. khuyên rán mà Niệm Phật, tu tâm dưỡng tánh.
20/7/2015


Thứ Tư, 15 tháng 7, 2015

GIỮ VỮNG LẬP TRƯỜNG TU

Kính chào chư huynh đệ ghé thăm. Quý vị đi dự Đại lễ mười tám tháng năm của 2015 nầy có vui không ạ?
Một phụ nữ trong đoàn dòm không thấy ai có dấu hiệu trả lời, cô nhạy miệng đáp:
Dạ rất vui!
Điều gì làm cho quý vị vui nhứt?_ tôi hỏi.
Cũng người phụ nữ ấy trả lời:
Hàng hàng lớp lớp chư đồng đạo từ muôn phương sông núi đổ xô về vùng đất thánh mến yêu, cảnh tượng như rừng người, không phải rừng lưa thưa mà là rừng đông đặc. Trên các nẽo đường của vùng Thánh Địa Hòa Hảo kiếm một chỗ đứng tróng cũng không có. Tôi vui vì sức cảm hóa của Đức Thầy và PGHH đối với dân chúng đến độ… nói như thế nào cho tương xứng chứ! là ức hiếp niềm tin đúng không? để dù cách bao dặm xa cũng phải gát bỏ việc nhà một ngày, hai, ba, bốn, năm ngày đến trung tâm Học Phật của PGHH mà nghênh đón ngày lễ trọng đại nầy.
Nghe cô kể  đúng là vui thật. Thế còn vui nào khác hơn không?_ tôi hỏi,
Cũng người phụ nữ ấy tiếp tục trả lời:
Thưa còn ạ, PGHH đã sản sanh những tín đồ như trụ cột to, lăn xả vào các trại cơm, tổ làm bánh xèo, bún, bánh tầm và những quán cung cấp nước uống dọc dài theo đường không cần treo bảng, hoàn toàn miễn phí. Tổ chức cung cấp nước uống giải khát thường là hình thức di động, khách dự lễ muốn uống là có ngay. Không phải nước lạc đâu nha! Nước ở quán “Mối tình Hòa Hảo” làm gì có chuyện nước lạc, nước ngọt và màu không đấy, uống vô làm cảm nhận ngay cái tình Hòa Hảo có trong lòng.
Có phải cô vì vui mà nói hơi nhiều, quá sự thật không?
Cô cười, nói:
Dạ không nhiều đâu, nói giá còn khiêm nhượng nữa đấy. Uống nước, ăn cơm, ăn bánh không trả tiền mà chủ nhân còn tay bắt mặt mừng mời mùa lễ năm sau tới nữa. Ai mà không cảm nhận được cái tình Hòa Hảo chứ.
Nghiệm qua sự phân tích của cô rất đúng như cô nói, tại vì tôi không để ý nên bỏ lở sự khen tặng những huynh đệ đã thể hiện tình Hòa Hảo một cách nhọc nhằn suốt trong mấy ngày lễ.
Cháu chỉ mới Hòa Hảo có sáu năm nay thôi nhưng cháu sớm cảm nhận được vẻ xán lạn nầy.
Ngoài những lẽ nói trên cô còn sự vui nào nữa không?
Dạ còn.
Xin cho biết.
Vào đạo sáu năm, hai năm qua nghe danh chú, còn nghe giọng nói hữu duyên của chú trong những đĩa thuyết trình “Đời Thượng Ngươn” và “Hâm Nóng Sự Thật” cháu ngưỡng mộ quá đi! Đáng lẽ cháu đến gặp chú lần dự lễ năm rồi 2014 nhưng đi chung với một số người nhác gan sợ về bị công an chận hỏi thành bàn trớt. Năm nay 2015 đi chung với quý vị đây không có lộn người nhác gan vào đoàn, không có vụ “ bàn trớt” nói đến thăm chú ai cũng phấn khởi. Chúng tôi rất vui khi được đến thăm chú.
Cám ơn cô và các vị trong đoàn. Tôi vô vàng cảm động khi hiểu được tâm tình của quý vị: tình Hòa Hảo là tình gan không phải nhác. Quý vị nói rất vui khi được đến đây thăm tôi, chỉ có đơn giản như vậy sao?
Câu hỏi của tôi vừa dứt có một người tằng hắng lớn tiếng, như tiếng lệnh stop người phụ nữ nhạy miệng, cô biết là huynh trưởng đoàn muốn gì, phải nhường lời. Ông huynh trưởng nói:
Nếu chỉ ghé thăm cho biết thôi là đơn giản thiệt. Nhưng không nhứt thiết như vậy, chúng tôi đến đây với mục đích chính là yêu cầu cho được hiền huynh thuyết một đề tài khuyên tu.
Tôi hỏi:
Quý vị còn thời giờ ở nghe sao?
Dạ còn.
Vậy tôi không dài dòng nữa. Quý vị đã phát tâm tu rồi, chúng ta cần bàn về   “Giữ vững lập trường tu”nhá!
Chúng ta đối mặt với cuộc đời có quá nhiều bề bộn, nên luôn luôn nêu cao sự hoan hỉ cho bớt rắc rối, nếu không tìm cách ngăn chận để mặc tình cho sự bề bộn lây lan thì khó mà trụ cho cái tâm yên ổn được. Bề bộn thường khi là việc thương và ghét, giàu nghèo, sang hèn, đẹp xấu…chiếm quá nhiều thời gian mà ta ít khi để ý. Trong khi lau quét nhà, rác bẩn hay không bẩn cũng là rác, phải quét dọn và đặt lại thứ tự, đúng vị trí. Ở vào vị trí niệm Phật như lúc ta Tịnh Tọa, Niệm Phật chỉ là niệm Phật thôi, những thứ khác chen rớt vào vị trí Niệm Phật đều là rác, phải quét sạch.
Đạo Đức cần có thực hành sẽ tốt hơn nếu đạo đức chỉ là một lý thuyết, lý thuyết suôn không thực hành đâu thấy cái tác dụng của môn mình học kết quả thế nào, tu mờ mịt là không hay. Đức Thầy xét vì chúng sanh mang thân tứ đại phải chịu sự chi phối của Sanh, Già, Bệnh, Chết, Ngài dạy đạo giải thoát khỏi vòng quay của sáu nẽo luân hồi, muốn thế phải chọn một trong hai cách tu, hoặc cả hai:
1, Niệm Phật cầu vãng sanh Tịnh Độ như những câu:
“ Lòng thương chúng thuyết phương Tịnh Độ
Đặng dắt dìu tất cả chúng sanh.
Nếu như ai cố chí làm lành,
Chuyên niệm Phật cầu sanh Phật Quốc.”
2, Bằng vào sức tự tu để tìm Phật trong chính mình, như câu “ hãy tìm con đường giải thoát cho mình Lạc Đạo An Bần, xã Thân Tu Tỉnh”.
Đức Thầy dạy đủ như vậy, chỉ còn đem thực hành nữa là xong. Nếu không thực hành để rơi vào lý thuyết suôn đến mãn đời, sự tu hành không có một kết cuộc đẹp đẽ vì. Đức Thầy nhắc nhở:
“ Lời Thầy dạy thiệt là cặn kẽ
Bao nhiêu tình bác ái góp tom
       Trông bá gia tìm đạo quá mồm…”
Biết được hai cách tu giải thoát thì lo mà tu, đừng để bất cứ việc vì trên thế gian ngăn cản. Có thể chúng ta rất thờ ơ với việc ngăn cản nên bị các thứ trên thế gian ngăn cản hoài hoài mà không hay, không thấy, tưởng lý thuyết suôn là đã chảy gở được suôn lòng. Không có vụ suôn lòng đó đâu! Không có vụ lý thuyết suôn là đi suôn đường.
Sống trong đời bề bộn, tín đồ thật tâm tu thì nên nghe lời Đức Thầy dạy, đưa hai câu nầy vào lòng cho có sẵn, để mỗi lúc đem ra áp dụng:
“ Chấp tay niệm Phật Di Đà
Lòng ta ta biết ai mà mà mặc ai”
Quan trọng là biết được lòng mình đục trong, thanh tịnh hay ồn ào, hiện tại có tu không, chứ lo gì cái chuyện biết lòng người khác. Người tu cầu vãng sanh tịnh độ, cứ mà Niệm Phật liên tục, ai nói gì, làm gì cũng mặc kệ người ta. Người trên đường hướng thượng nghe tiếng ngọt ngào hay gay gắt, mắt xem mà phân biệt đẹp xấu, trụ tâm vào đó lâu là dừng lại lâu. Đi lâu mà không tới bởi lý do dừng lại lâu đó.
Tu có hoan hỷ là lợi thế bậc nhất để xua đuổi vọng tâm, vẹt phá bống đen vô minh tức khắc. Đừng vì ta là người tu mà ai đó đến với ta lại nói chuyện không tu, người khác cũng tu nhưng họ nói chuyện không giống như ta nói là đem ra đá “mặc kê” với họ. Còn nữa ai hiểu biết không giống như ta hiểu biết, đụng chuyện mổ xẻ họ thế nầy thế khác, bảo vậy là thông thái, đạo cao sao? Tốt nhất là xử trí “mặc ai” đi để dùng trọn thời gian vào việc tu, trong lúc tu thật sự thì không có dư cái tâm ra để mà phân biệt họ sai ta đúng. Lúc hướng ngoại là cái tâm đã “ bỏ chỗ” tu, thế nào cũng sanh sự nầy nọ thay vì người tu là vặn tắt nó.
Hoan hỷ không đặt nặng vấn đề lợi hay hại ai mà hoan hoan hỷ để có một kết quả tốt cho chinh hành giả. Không phải ta không đặt vấn đề xấu của họ mà ta biết là tội đồng lõa, là có lợi cho kể xấu để tiếp tục làm xấu, không phải ta không đặt vấn đề tốt của họ ra đã làm mất quan điểm tốt của họ đâu. Ta là người tu, đến với ta là người có tu hay không tu và họ phải hay quấy đến cỡ nào, với ta mà nói, đều là cái chuyện bên ngoài. Bàn về họ ta tưởng mình thông minh ra nhưng sự thật thì mình đang ở trong tăm tối và ngu xuẩn làm mất thời giờ tu của mình với ba cái chuyện bên ngoài ấy. Cần ra ánh sáng nhưng ta không tự mình vùng vẫy thoát ra bằng sức vẹt phá mây mù của pháp môn Tịnh Độ, suy nghĩ về vẹt phá mây mù, hoặc phê bình cách tu của người khác để chứng tỏ mình tu đúng là tu sai rồi, vì ngay trong lúc phê bình người khác, chứng tỏ mình tu đúng là hiện tại không có tu, vì đang phê bình và chứng tỏ, đâu có lòng Niệm Phật hay “Tịnh Lòng” mà bảo là tu chứ!
Ta rãi một nắm lúa giống xuống đất mỗi hạt tùy theo sự ảnh hưởng của mặt đất mà giương mầm, cây lúa lên và phát triển chỗ nầy nó không đặt vấn đề chỗ ta đây là hơn hết phủ nhận các hạt giống sanh mọc nơi khác là không bằng. Đức Thầy dạy đạo Từ Bi, hàng triệu triệu tín đồ tu theo đạo từ bi của Ngài dạy, bất cứ ở đâu cũng tu được một cách thoải mái. Vậy ta nên hoan hỷ để tránh động tâm những chuyện không cần thiết như phê bình nầy nọ với người khác, dầu sự phê bình điểm xấu của người khác là có thật cũng chẳng lợi ích gì khi sự liên tục giữ chánh niệm trong ta bị mất.
Xin đại diện đoàn cám ơn hiền huynh qua đề thuyết khá hấp dẫn _ Ông trưởng đoàn nói_ chúng tôi phải nghe theo.
Tới giờ về rồi sao? _ Tôi hỏi
Xét giờ Trời không còn sớm nữa, chúng tôi mót mái thời gian đến thăm hiền huynh, về cũng khoảng trên dưới mười giờ tối mới tới nhà.
Quá mệt mỏi cho huynh đệ. Xin chúc cả đoàn thượng lộ bình an vậy.
Viết lại cuộc gặp hôm 19/5 âl 2015.

15/7/2015

Chủ Nhật, 12 tháng 7, 2015

PHÒNG THUỐC ĐÔNG Y MIỄN PHÍ

Hôm 6/7/2015 tôi đưa người bạn đạo đi trị bệnh ở một phòng đông y, là cơ sở từ thiện của người tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo ấp Phú Hòa, xã Phú Hữu, huyện An Phú chung sức chung lòng kẻ công người của góp vào.
Tiền thân của phòng đông y nầy là trạm y tế xã Phú Hữu, qua thời gian hoạt động dài lâu đã xuống cấp, dẩu có sửa chửa thì mặt mày cũng xưa lắm, hết hấp dẫn. Chủ nhân của nó đi chỗ khác cất mới. Thấy trạm y tế bỏ hoang đã làm động lòng các nhà từ thiện, họ đến hỏi mượn làm phòng hốt thuốc nam độ bệnh miễn phí cho bà con xa gần. Gặp Ông chủ tánh tình rộng rãi, dễ thương, hỏi mượn là ừ ngay.
Nơi bàn xem mạch của lương y, trên vách tường trắng người ta có viết lên khổ giấy rộng bài giảng đạo “ Mười Điều Khuyến Tu”của Đức Phật Thầy Tây An qua cơ bút của Cao Đài Giáo. Trong khung rộng của bàn xem mạch có để băng, ghế cho cô bác bệnh nhân ngồi chờ xem mạch hốt thuốc, ngó qua dòm lại là thấy và đọc Mười Điều Khuyến Tu. Khuyên tu đối với bệnh nhân là điều rất tốt và hợp lý hợp tình nhưng tôi tiếc phải chi Ban Tổ Chức có cho thêm Tám Điều Răn Cấm của Đức Thầy trên đó nữa thì hay thêm hay, vì đọc nghe lời khuyến tu đặng tu nhưng tu hành thì giới luật phải đặt lên hàng đầu. Giới luật của người tín đồ PGHH là Tám Điều Răn Cấm, phải có nữa mới được.
May thay! Sự ước ao của tôi không lâu thì có một vị thiện nguyện viên đến treo thêm một bản Tám Điều răn Cấm. Vừa treo lên tôi thấy khung cảnh đẹp lạ ra.
Những thiện nguyện viên đến phục vụ phòng thuốc, kể cả bệnh nhân đều có một chế độ ưu đãi bình đẳng tùy hỉ dùng nước đá, nước suối đóng thùng, nước sữa đậu nành, trái cây, bởi một số mạnh thường quân nhận tài trợ liên tục ngày qua ngày. Nước đá, nước sửa đậu nành, nước tinh khiết đóng thùng để chung một hàng, không có tiếp viên phục vụ, chừng ai muốn uống tự tay rót lấy.
Nơi bàn xem mạch có khoảng bốn năm bệnh nhân ngồi chờ. Thiện nguyện viên khoảng chục người mà người nào việc nấy làm tôi đi, đứng, ngồi đâu cũng rất cô đơn. Trong phòng thuốc ý là tôi có quen trước ba vị, Ông Trần văn Mết, bà Bùi thị Cưng, cháu Phùng Xuân Nguyệt nhưng họ có rảnh đâu mà tiếp tôi. Ba vị Ông Trần văn Mết tổ trưởng lương y đang bị cột cứng trong công đoạn bào chế thuốc hoàn, Ông ở miết bên hai cái nồi quay vòng vòng, đôi tay dính đầy bụi nhựa thuốc. Tổ phó Bùi thị Cưng ngồi suốt ở bàn xem mạch và bóc thuốc vào thang, cháu Phùng Xuân Nguyệt tổ viên lương y thì lo làm việc dưới nhà bếp. Ngoài ra quý vị thiện nguyện viên khác như đem phơi thuốc củ, chặt thuốc mới, lựa thuốc để lâu đem phơi, thuốc nào để hốt ra thang cho bệnh nhân về nấu uống liền, dược loại nào để bào chế thuốc hoàn… quý vị đều làm việc chu đáo.
Tổ trực phơi thuốc nhìn Trời hơn nhìn dưới đất, nếu thấy màu Trời không sáng sủa những thiện nguyện viên nầy chuẩn bị tư thế sẵn, hô mưa là đùa hốt vác chạy ào ào.
Nhớ mấy hôm trước có một cháu gái nhà đồng đạo hỏi tôi:
Người Hòa Hảo làm việc xã hội từ thiên với nhiều ưu điểm đáng trân trọng. trong lúc làm từ thiện có người áp dụng bằng sự hy sinh, gạo ăn của ngay mai chưa có hướng giải quyết nhưng đụng chuyện yêu cầu giúp sức, ngày mai treo bụng bửa nay cũng đi làm từ thiện, sự sống đang thiếu, lúa ngoài đồng chưa chín cũng phải hỏi tạm tiền ai dư mà làm việc bố thí, móc sạch túi. Theo chú nghĩ gì đâu người ta dám hy sinh như vậy?
Tôi đáp:
Ở đây tôi không nói “ Làm phước được phước” vì chuyện ấy là lẽ tất nhiên không bàn cũng ra được đáp số. Tôi muốn nói Đạo PGHH là Đạo Tình Thương.
Chú dựa vào đâu để nói Đạo PGHH là Đạo Tình Thương _ cháu ấy hỏi_:
Trong giảng dạy về PGHH Đức Thầy có đề ra bài “ Chư Phật Có Bốn Đại Đức”: Từ, Bi, Hỉ, Xả. Cũng theo sự giải thích của Đức Thầy: Từ Bi là lòng thương yêu vô bờ bến của Đức Phật đối với chúng sanh con Hỉ Xả là vui và xả bỏ tội lỗi cho họ.
Đức Huỳnh Giáo Chủ là cổ Phật lâm phàm. Phật xuống thế đáng lẽ Phật sẽ nâng cao tầm quan trọng ngôi vị Phật, khuyên bá tánh lập chùa thờ Phật. Nhưng Đức Phật của PGHH là không màng Phật vị của mình, dạy tín đồ đừng có cất chùa thờ ta. Như Lai là rộng độ chúng sanh, đi tầm thanh cứu khổ suốt chứ có ở chùa đâu mà cất, hãy để đồng tiền cất chùa ấy dùng vào các việc cứu khổ chúng sanh:
“ Khùng cả tiếng kêu dân ơi hỡi,
Hãy giúp cho kẻ khó mới nhằm.
Đến loạn ly khổ hạnh khỏi lâm,
Còn hơn đúc chuông đồng Phật Bự”.
Theo suy nghĩ của tôi chữ “ Khó” mà Đức Thầy dùng để kêu gọi lòng hảo tâm của bá gia thiện tín là rất nhiều việc thiện phải làm nhưng cần làm trước hơn hết là hai cái khó đặc biệt Đói khó và Bệnh khó. Đức Thầy lâm phàm độ chúng sự thật không phải nhắm vào mục tiêu từ thiện cứu đói cứu bệnh mà là dạy pháp môn tu, độ cho người đời tu niệm để giải thoát khổ đau sanh tử trong một kiếp nầy thôi là không còn đào thai trở lại dương gian như Ngài bảo:
“Chỉ một kiếp Tây Phương hồi hướng
Thoát mê đồ dứt cuộc luân hồi”
Hoặc là:
“Mãn kiếp hồng trần sanh Lạc Quốc
Hưởng công Niệm Phật rất yên lành”.
Nhưng hềm vì chúng sanh trong thời kỳ mạt hạ, cặn bã xã hội tích tụ từ Lý Tam Ngươn: Thượng Ngươn, Trung Ngươn và đã rơi xuống hạ ngươn hạ, chúng sanh ít phước tội nhiều, nhân quả đưa dần về nghèo đói, bệnh tật. Chủ ý là nói Phật pháp khuyên tu nhưng trước một người nghèo đói siểng niểng làm sao mà nghe pháp cho vô. Thay vì nói pháp để buộc họ nghe ta cho họ một chén cơm để cứu đói họ đi rồi hãy nói Phật Pháp sau. Chén cơm đã làm cho họ mặt mày tươi tỉnh, biết nghe, biết thương kẻ thương mình thì chén cơm cứu đói cũng tương tợ như bài thuyết pháp.
Một bệnh nhân không đủ viện phí đến cho mấy thầy “lang sa… mổ mật người ta lấy tiền” lòng mong được trị khỏi bệnh, ta đến nói pháp cho họ tu xem cũng được mà chưa phù hợp lắm, ta nên biết cái họ cần bây giờ là được điều trị hết bệnh. Họ đi trị thuốc Tây đả đời, tiền bạc hết sạch trở về uống thuốc nam, nếu các thiện nguyện viên trong phòng thuốc từ thiện các vị lương y nhà đạo mình mở rộng lòng ra mà chăm sóc kỷ lưỡng, chính sự chăm sóc của các nhân viên trong phòng thuốc tạo cho bệnh nhân một ấn tượng về tình thương, biết quyến luyến mấy người làm từ thiện, quyến luyến những người theo an ủi giúp đỡ cho mình. Yêu cầu bệnh nhân nghĩ như vậy thì sự chăm sóc bệnh nhân của quý vị làm từ thiện trong phòng thuốc cũng tợ như bài thuyết pháp, họ cảm nhận được tấm lòng vàng tất nhiên sẽ thay đổi những suy nghĩ rắc rối, cố chấp và có thể nhờ đó mà chuyển nghiệp nhanh, sớm hết bệnh nữa là khác.
Đức Thầy đưa ra ba bài thuốc nam rất dễ kiếm thuốc mà còn có cái ưu điểm là trị bá bệnh như trong Sám Giảng Giáo Lý có câu:
“ Có đau thì thuốc đó mà
Dòm trong bảng chữ về nhà kiếm cây”
Không nói đau bệnh gì hễ có đau thì tự đi hốt mà ấu uống. Tiếc vì Đức Thầy  đi vắng sớm, dạy thuốc trị bệnh nhưng không có thời gian chăm sóc bệnh nhân nên ba bài thuốc trị bá bệnh của Đức Thầy dần dần đi vào quên lảng, không còn mấy tín đồ tin dùng
Quý vị thiện nguyện viên trong ban tổ chức phòng thuốc đông y từ thiện ở ấp Phú Hòa có lẽ đã nhận được lời dạy của Đức Thầy “hãy giúp cho kẻ khó mới nhằm” nên tự động hạn chế việc làm giàu cá nhân đến đây chung sức chung lòng làm giàu tình thương và đạo đức PGHH.
12/7/2015


Thứ Ba, 7 tháng 7, 2015

NÓI CHUYỆN VỚI HUYNH ĐỆ

Huynh Đệ! Như người dong thuyền từ sông mê qua bờ giác, thời gian lâu ta tưởng rằng mình đã đi xa. Đi lâu và xa là hai chuyện hoàn toàn khác nhau. Đi lâu mà xuống thuyền không chèo, không bơi hay chèo bơi không liên tục, yếu ớt thì đi lâu không phải là đi xa. Tầm nhìn của đôi mắt chúng ta cách năm mươi thước là thấy rõ, một trăm thước thấy hơi lu, năm trăm thước thấy dạng dạng thôi, một ngàn thước đổ lên là hết còn thấy gì. Nhìn lại sau lưng không thấy nhà cửa, hàng cây xanh xanh…mới gọi là đi xa. Nếu chèo bơi lâu mà nhìn lại phía sau lưng, con người và đồ vật còn thấy rõ nét thì xa gì chứ? Đi tu mười năm, hai ba mươi năm tưởng đà gần tới Phật, ai dè phía trước tróng không mà nhìn về điểm khởi hành nét quyến rủ vẫn còn mới hực, còn thấy rõ ràng hình bống của thương, hình bống của ghét, của thất tình, lục dục. Đã nói đi từ lâu sang qua bờ giác thì thôi cõi thế gian đừng tríu mến nữa mới phải, đúng ý nghĩa của người qua bờ giác. Đàng nầy mấy mươi năm dong thuyền rời xa bể ái, gần chết tới nơi mà một chút sự đời cũng lưu luyến, khuyên bỏ đi để lo Niệm Phật liên tục cho Phật đến rước mà không chịu bỏ, không buông, buông ra là đi mà không buông lấy gì đi!
Huynh Đệ! Mình có thân đây chỉ là cái thân giả hợp từ bốn thứ đất, nước, lửa, gió kết lại. Do vì khiếp trước không tu hay tu ít mà không diệt được hạt giống sanh tử phải đào thai xuống chốn hồng trần chịu khổ đau bởi sanh, già, bệnh, chết. Ngay như tấm thân ta đây còn không giữ được huống hồ vật chất tiền tài là của ngoài thân. Trong lúc tu thì lo tu chứ bảo thủ nó làm gì. Đừng để bệnh bảo thủ trong ta hết thuốc chữa. Đến lúc lâm chung đáng lẽ chỉ có Niệm Phật và niệm đến “nhất tâm bất loạn”thì bảo thủ nhảy vào làm chủ tình hình gợi lên thương nhà tiếc của, ruộng đất bị Ông hàng xóm lấn ranh, kiện tụng chua xong tiếc…tiếc. Ra đi mà ôm cái tiếc sự đời theo, thủ tục đó, hành trang đó, không phải đi về cõi Phật mà đi đổi lấy một thân sanh tử khác.
Huynh Đệ! Lo mà tu đắc giải thoát sanh tử để không có kiếp sau trở lại thế gian. Những chuyện lo xa như tu độc thân già bệnh không ai chăm sóc, ai chôn cất khi chết, ai thờ phượng giỗ quải… đều là chuyện bao đồng. Ta học Chánh Tư Duy để làm gì mà không đem ra áp dụng cần thiết ngay lúc bệnh có vẻ hối thúc ép tử. Đức Thầy dạy:
“ Chánh tư duy mục ấy thanh cao
Hãy tưởng nhớ những điều đáng nhớ”
Người tu trước lúc lâm chung, trong khi xác thân có bị báo bệnh, điều đáng nhớ trong lúc nầy là nhớ Phật chớ đừng nhớ con cái, ruộng vườn, của cải, điều đáng niệm bây giờ là Niệm Phật đừng để niệm chúng sanh chen vào cắt đứt Niệm Phật. Xắp bị quỷ vô thường đến lấy xác lúc nầy mà còn nhớ thế gian, niệm chúng sanh thì niệm chúng sanh dẫn mình đi đào thai một kiếp chúng sanh khác, sanh tử chịu khổ nữa. Sợ vì mình chết không ai chôn. Người còn sống dám để mình thúi lên cho cả làng bỏ trốn sao?Lo chi chuyện đó cho dư để mất thời giờ Niệm Phật.
Huynh Đệ! Đừng để tâm đến cái chỗ chỉ có mình tu chứ không ai tu thành thử nghe thấy cô đơn. Cô đơn gì chớ! Không phải hàng ngày ta muốn được yên tịnh để lo tu đó sao? Chừng được yên tịnh thì than cô đơn, thiệt cái lòng sao mà đầy mâu thuẫn. Khi huynh đệ than thân sống nơi cô đơn vắng vẻ, người ta tu có bạn có bè, có người để tỏ bày tâm sự. Thở than như vậy quý vị tưởng rằng có ai đó thương mình, mến mộ hạnh cách tu bất cần đời của mình. Không chắc, nếu có thương mến cũng chỉ là một mớ tình cảm bồng bong, nhưng người khác thì biết rằng quý vị không có tu niệm được ngay khi lòng cảm thấy cô đơn. Niệm Phật đi vào cảnh giới tâm linh Phật của lòng mình, ở góc độ nào nhình mình có cô đơn chứ?
Huynh Đệ! Hễ tu là tự đặt trách nhiệm cho mình “mãn kiếp hồng trần sanh lạc quốc”(lời Đức Thầy) chuyện mãn kiếp hồng trần khỏi lo cũng có, lo là lo làm sao để sanh lạc quốc. Chỉ niệm sáu chữ NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT đừng có niệm gì khác. Đặc trách nhiệm bảo vệ đường tu và bảo đãm vãng sanh. Nếu đòi hỏi phải là người thân quyến hay bạn thân lo cho mình từ bệnh đến tử chưa hẳng là một lợi thế cho việc tu sanh sang lạc quốc. Luyến ái là điều đáng sợ nhứt, cần phải được ngăn chận từ xa, không để sự hiện diện của nó cho người trên đường về Tây Phương Cực Lạc để việc đi đường được thượng lộ bình an.
Huynh Đệ! Một chiếc áo còn mới lở bị gai móc rách một lổ nhỏ, nếu ta siêng năng liền cầm kim nhíp một chút là xong, cái áo liền lạc. Không siêng vá ngay sau khi phát hiện chiếc áo rách là cơ hội cho chỗ rách sẽ rách thêm, nhiều ngày rách lổ quá lớn đi đưa cái lừng trần ra, bây giờ có muốn vá lành không phải là không được, chỉ e tốn quá nhiều công mà mình vốn tính dải đải không có khả năng ngồi vá lâu, đành vụt chiếc áo thôi. Vụt chiếc áo tức bỏ một kiếp tu. Người tu đúng cách là đan khít cái tâm không cho kẻ hở để tâm tâm nối liền Niệm Phật, lở bị phiền não móc rách chút sự tu là hay, không trì hưởn, vá lành tại chỗ sau khi hay. Sự tu bị rách một chút mà vá kịp thời, bít trịt, vọng niệm chúng sanh không thò đầu thò tay vào được mà phá, chỉ còn Niệm Phật và chỉ còn một đường dẫn tới cõi nước của Phật.
Huynh Đệ! Phần đông người ta bảo nhau “Tu là cội phúc”dù biết vậy nhưng vì sống trong dục vọng họ không thể làm người tu được. Cội phúc nầy không phải là sự chờ đợi chết được vãng sanh Tịnh Độ. Chờ chết để vãng sanh là không chắc đâu. Chờ chết để vãng sanh, có vãng sanh được cũng là ăn may, ăn quá khít núc, lỡ không vãng sanh là không còn cơ hội khi “ quỷ vô thường dắt xuống diêm đình”. Để chắc ăn, phải tu làm sao cho có Cực Lạc tại tâm ngay khi mình còn sống mạnh khõe. Đức Thầy dạy:
“ Gắng công trì niệm sớm khuya,
Thân tuy còn tục tâm lìa cõi mê”
“Sớm khuya” ý nói đêm và ngày. Nhờ có gắng công Niệm Phật đêm ngày, niệm khít như vậy vọng niệm chúng sanh không chen vào được, cái thân còn đây mà tâm Cực Lạc tại trần. Tại trần mà Cực Lạc được thì cuộc sống không có vọng nghiệp, chừng chết không có vọng nghiệp đeo đòi, tự do với tâm Phật đi về cõi Phật là lẽ tất nhiên, ăn hoàn toàn, không phải ăn khít núc mà lo sợ có sơ hở.
Huynh Đệ! Quý vị cho rằng tâm Cực Lạc không thể sánh đo với Cực Lạc thật ở cõi Nước Tây Phương, vì Cực Lạc của cõi nước Tây Phương có Ao Thất bảo, có nước Bát Công Đức, suối reo tiếng pháp, chim kêu cũng tiếng pháp còn thân người là Liên Hoa Thân… Tôi đồng ý với huynh đệ là cõi nầy không giống như cõi Phật, nếu giống như cõi Phật thì ai thèm tu để thác sanh về đó. Tôi chỉ mới nói với quý vị là Tâm Cực Lạc tại trần chứ chưa nói cõi Cực Lạc tại trần. Do đó, không thụ hưởng nước Bát Công Đức cho thân thì thụ hưởng nước Bát Công Đức trong tâm, Ao Thất Bảo cũng thế để cái tâm luôn luôn có Bát Công Đức, có Thất Bảo. Ở trong trần, gió thổi không vừa ý, chim kêu không vừa ý làm ta bực bội, dễ nổi cáo, thiện pháp không thể có trong khi mình bực bội, muốn nổi cáo. Nhưng nếu gió thổi mát nhờ đó mà tịnh tọa không đứt đoạn thì gió đã làm bài thuyết pháp cho mình rồi. Người ta mượn từ “chim kêu vượn hú”là nói lên cái nơi xa xôi quạnh vắng, ta từ nơi ồn náo mà đi tới chỗ quạnh vắng để được yên tỉnh chuyên tu, lúc ta phóng tâm ồn náo, nếu tiếng chim kêu làm ta thức tỉnh mình đi quá đà thì tiếng chim kêu ấy giá trị như một bài thuyết pháp. Có người nói ra ta thương, có người hễ nghe cái giọng họ nói là bắt ghét, thương hay ghét đều là vọng tâm thì tất nhiên trong khi nghe họ nói, không phải là nghe pháp.

08/7/2015

Chủ Nhật, 5 tháng 7, 2015

ÔNG THẦY DẠY ĐẠO

Xưa có người tu thích tu độc thân nên trốn đi một nơi xa để không ai biết, chọn vườn hoang thanh vắng cất chòi nhỏ ở tu. Cắt đứt các qua lại để tránh làm bận rộn hao phí thời giờ chuyện trò với khách. Miệt mài hành đạo, bạn cùng Thiền Tịnh pháp môn. Lâu ngày sáng tâm, học một hiểu biết tới hai ba, hạnh cách hơn người. Hôm nọ có vài người đi thấy thuốc nam từ thiện lở bước ghé vào am tranh xin nước uống. Ông đạo chỉ múc nước cho rồi Nam Mô A Di Đà Phật mà đì vào trong. Quý vị đi lấy thuốc nam về, không biết đồn ra thế nào mà cái nơi vắng tanh ấy chỉ trong vài năm sau thì nhộn nhịp khách thiền môn kẻ tới người lui cầu học Phật Pháp, một số vị tríu mến xin cho ở lại tu hành.
Ông Đạo đẩy trôi đi:
Quý vị muốn tìm chỗ thanh vắng, rảnh các việc thế sự mà chuyên tu là tốt, nhưng nơi đây quý vị xem có còn là nơi thanh vắng nữa đâu!
Lòng Thầy là sự thanh vắng bao la, nếu con được ở tu đây là ở trong sự thanh vắng bao la của lòng Thầy chắc sẽ tốt hơn ở rừng hoang vắng.
Ông Đạo chỉ cái chòi tranh rồi lại chỉ muôn rừng xung quanh bao bọc nói với khách thiền môn:
Chỗ bần đạo là vậy đó, quý vị nào thấy ở được thì đây sẵn sàng.
Nếu trong chòi chật chội con có thể che thêm cái lều vải được không thưa Thầy?
Quý thiện khách quyết tâm đến vậy sao?
Dạ
Nếu lòng thiện khách đã quyết thì bần đạo chấp nhận.
Thiện tín đến viếng thấy cảnh chật chội bất tiện, họ bàn nhau lập cho ngôi chùa để Ông có chỗ dạy đạo. Hoàn cảnh tốt hơn ép Ông thu nhiều đệ tử.
Hồi đó ở tu một mình, tự quét dọn, nấu ăn giặt rửa, từ thu nhận đệ tử, bên Ông lúc nào cũng có những thị giả phục vụ và chăm sóc sức khõe, có khi cách chăm sóc hơi quá đáng và cũng có lần một nữ Phật Tử từ xa đến đã vào lau quét phòng Ông Đạo. Ông thấy như vậy là không được, khuyên cô ra thôi nhưng cô vì muốn làm được chút công với nhà tu có tiếng, cô nói:
Xin cho con kiếm chút phước với Thầy.
Bần Đạo không có phước để cho. Thiện khách hãy cầu phước từ trong tâm mình đi.
Nhờ Thầy chỉ con cái cách cầu phước trong tâm.
Thiện khách đến các Nữ Tu mà hỏi, các vị đó biết rành hơn bần đạo.
Thầy xem con là con gái của Thầy không được sao?
Nam Mô A Di Đà Phật Bần Đạo không biết gì về việc thê tử nên không miễn cưỡng. Vào cửa thiền môn thanh tịnh dầu tu thoát lục dục thất tình thì phải treo gương.
Có lần ở trước chúng Ông nói:
Hãy vì sự tu học mà đến, đến rồi là lo tu học đúng ý thức ban đầu, đừng vì sức khõe của ta mà tiếp. Ta vẫn mạnh và dư sức để tắm giặt, dư sức để quét phòng, dọn dẹp tọa cụ, bàn viết. Đừng vì ta mà bận làm việc đó cho ta. Ai tu cũng mong thành Phật quả hay vãng sanh về cõi Phật. Nếu vì bận tâm lo cho ta mà các trò tu không đạt đến cảnh giới chơn tâm thanh tịnh của Phật dạy, hay chánh tâm niệm Phật cầu vãng sanh Tây Phương thì chẳng những ta gây lỗi lầm với các người, mà các người cũng có lỗi với chính bản thân mình vậy, có biết không?
Một đệ tử cảm lòng Thầy quá là rộng lượng, tuổi già sức yếu mà muốn có chia sẻ công tác và bình đẳng với mọi người, quì gối thưa rằng:
Bạch Thầy, Thầy dạy chúng con giác ngộ sự đời, quy y phật Pháp. Thầy rất xứng đáng để cho con phục vụ, sao lại thấy có lỗi với chúng con được?
Người tu học Phật Pháp_ Sư Phụ nói_ phải luôn luôn xem sanh tử là việc lớn, phục vụ riêng cho Thầy là việc chẳng những nhỏ mà còn là rất nhỏ, bởi vì, dẩu phục vụ cho Thầy là có  phước, số phước đó không đủ dẫn con đến Tây Phương Cực Lạc mà con mong muốn.
Nhưng con muốn làm việc đó và con thấy con rất an tâm khi chăm sóc Thầy.
Các con đừng hở ra là nói “an tâm” mà không phân biệt an tâm tới hai ba dạng loại. An tâm trong sự nghiệp Phật giáo và an tâm khi ước muốn một điều vì đó đã đạt thành. Các người theo ta học đạo nhận ta làm Thầy, xưng là đệ tử, tín đồ, nhưng có biết gì sao ta ra dạy đạo cho các người không?
Bạch Thầy có phải vì muốn cứu độ chúng con không, bởi chúng con đang lặn hụp trong biển mê sanh tử?
Đúng vậy, các đệ tử nghe ta hỏi, việc ta dạy các người thoát khỏi biển mê sanh tử, các người đã thực hành tới đâu?
Bạch Thầy, chúng con chưa kiểm chứng.
Vậy hãy mau mau mà kiểm chứng bằng vào thực tế các trò đang làm gì, ở đâu từ lặn hụp giữa chốn hồng trần đến thoát ly biển khổ sanh tử.
Theo Kinh Phật nói
Đừng trả lời ta qua Kinh Phật, sách vở.
Bạch Thầy, không qua sách vở con không thấy được con đang ở đâu sự lặn hụp giữa chốn hồng trần đến thoát ly biển khổ sanh tử.
Ta dạy đạo cho các trò biết để mà hành, chứ không phải để các trò lấy sự hiểu của ta dạy mà lý thuyết, lý lẽ, nhận tiếng khen là thông minh. Các trò rời bỏ quê hương, cha mẹ, đem thân đến đây học đạo giải thoát là chuyện lớn, trước gây cho ta cái danh dự là một Ông Thầy tốt, mà mục tiêu thoát khỏi sanh tử trong một kiếp các người không thực hành được thì cái tốt của ta không hoàn toàn. Chẳng lẽ học một mớ ba cái lý thuyết tốt là tự nhiên mình được tốt lên sao. Thầy dạy học trò, học trò học hết học kỳ không có đứa nào lên lớp hay lên lớp với con số quá ít thì còn ai dám khen Ông thầy giáo là Thầy giỏi, dạy hay. Học sinh học cuối học kỳ, thi không lên lớp với số lượng thí sinh tương đối, Thầy giáo bị trách nhiệm với cơ sở giáo dục là chuyện đương nhiên.
Các trò nói thương Thầy phải không? Thương Thầy thì phải làm gì đi chứ. Không lẽ miệng nói thương là đủ sao. Nhưng Thầy không cần các đệ tử thương Thầy bằng cách chăm lo sức khõe cho Thầy. Thầy nói là Thầy còn khả năng tự chăm sóc cho mình, các trò hãy trở lại chăm sóc cho mình qua sự tu, sức tu cho thực tế và đúng ý nghĩa.
“Sự tu” quan trọng hơn là lý thuyết, tâm thanh tịnh sẽ tốt hơn là suy nghĩ về tâm thanh tịnh, tốt hơn đọc hay suy nghĩ về một câu kinh Phật, luận tổ. Gì sao? Vì Kinh Phật, luận Tổ dạy người ta tu hãy tu cho thanh tịnh tâm, trạng thái như như, sự sự vô ngại của tứ tướng Niết Bàn Diệu Tâm là tự tánh không sự trên mọi lúc mọi nơi. Hành giả đi đến thanh tịnh tâm là đạt kết quả của một môn lý thuyết.
Nói xong Ông đọc lên bài kệ:
Đi đứng chẳng dụng công
Ngủ ăn không đai lòng.
Địa ngục, Niết Bàn đừng trụ tướng,
Tất nhiên diệu dụng Lý Chơn Không.
Ngày kia Ông nhận được báo hiệu thọ phần Ông sắp mãn, đến lúc từ biệt trần gian với những đệ tử tận tụy học hành. Ông hành sự như người đến làm việc, làm hết việc thì đi, chẳng quan tâm đến ai.
Thân có chút bệnh sơ sài, trước mặt các đệ tử, Ông từ nằm chõi dậy, vào thế ngồi kiết già chấp tay đưa lên ngực, điều nầy đã làm một vài đệ tử yếu lòng bịn rịn khôn nguôi, rươm rướm nước mắt. Ông vẫn y trạng thái chấp tay, đầu cúi hơi mắt khép một nữa, cất tiếng rằng:
Huyển ảo thân nầy trả thế gian
Thanh tịnh ta mang nhập Niết Bàn.
Các con nên lắng điều phiền muộn,
Sống có đâu là sống để than.
Nghe qua lời kệ, một vài đệ tử yếu lòng liền cứng lên, không còn rướm lệ. Ông đọc bài kệ nữa:
Ngước lên nhìn Phật Tổ
Ngó về chỗ diêm vương
Thấy đâu cũng ngồ ngộ
Hiện toàn thân kim cương.
Đọc kệ xong Ông kéo thẳng chân, nằm nghiêng vai phải, tự sửa thân tướng trang nghiêm mà siêu hóa.
05/7/2015